Thể chế trong Kỷ nguyên mới

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: “Ưu tiên hàng đầu với chính sách đặc thù nhằm giúp doanh nghiệp dân tộc đạt được vai trò dẫn dắt”

(PLVN) - Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới đã yêu cầu tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về doanh nghiệp dân tộc tại Việt Nam theo hướng “có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu”.
 TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.

Thế nào là doanh nghiệp dân tộc? Để xây dựng đội ngũ doanh nghiệp dân tộc cần có những cơ chế, chính sách, quy định cụ thể gì?... là những nội dung xung quanh cuộc trao đổi của nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Sĩ Dũng với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam.

Định hình khái niệm “doanh nghiệp dân tộc”

PV: Thưa ông, ông quan niệm như thế nào về doanh nghiệp dân tộc?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Doanh nghiệp dân tộc, theo quan điểm của tôi, không nên bị giới hạn bởi hình thức sở hữu hay quy mô cụ thể, mà cần được hiểu dựa trên những giá trị mà doanh nghiệp mang lại cho quốc gia và dân tộc.

Đó là những doanh nghiệp đóng góp tích cực vào lợi ích quốc gia, bao gồm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, tạo việc làm, đóng góp ngân sách, hỗ trợ phát triển công nghệ và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đồng thời, các doanh nghiệp này cần thể hiện tính độc lập và chủ động trong phát triển, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và không phụ thuộc quá mức vào các nguồn lực bên ngoài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp dân tộc cũng phải cam kết phát triển bền vững và có trách nhiệm xã hội, đóng góp vào sự gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam nên tiếp cận khái niệm doanh nghiệp dân tộc một cách linh hoạt và rộng mở. Đó có thể là các tập đoàn kinh tế quy mô lớn, như những doanh nghiệp nhà nước hàng đầu (Vietnam Airlines, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam…) hoặc các tập đoàn tư nhân mạnh mẽ (Vingroup, Sungroup, Hòa Phát, Masan…).

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa với tiềm năng phát triển thành các tập đoàn lớn trong tương lai cũng cần được xem là một phần quan trọng của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc. Ngoài ra, các doanh nghiệp gia đình, học hỏi từ mô hình Nhật Bản và Hàn Quốc, có thể đóng vai trò ổn định và lâu dài trong việc hình thành các tập đoàn kinh tế lớn.

Để xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nghiệp dân tộc, chúng ta cần có các chính sách mang tính đột phá và dài hạn.

Trước hết, cần hỗ trợ doanh nghiệp dân tộc tiếp cận nguồn vốn với lãi suất ưu đãi, đặc biệt trong các ngành then chốt như công nghệ cao, năng lượng tái tạo và nông nghiệp công nghệ.

Cải cách thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý là điều kiện cần thiết nhằm giảm thiểu rào cản và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, cần xây dựng các cơ chế khuyến khích sự liên kết và hợp tác giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa và lớn để tạo nên một hệ sinh thái kinh doanh bền vững.

Ngoài ra, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận, ứng dụng công nghệ tiên tiến, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển các sản phẩm mang giá trị gia tăng cao.

"Học hỏi từ bài học thành công của Nhật Bản và Hàn Quốc, chúng ta cần xây dựng các “sếu đầu đàn” dẫn dắt nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển như nền tảng hỗ trợ" - TS. Nguyễn Sĩ Dũng"Học hỏi từ bài học thành công của Nhật Bản và Hàn Quốc, chúng ta cần xây dựng các “sếu đầu đàn” dẫn dắt nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển như nền tảng hỗ trợ" - TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Khái niệm “doanh nghiệp dân tộc” cần được định hình không chỉ như một mục tiêu, mà còn là một động lực quan trọng để Việt Nam phát triển bền vững trong thời kỳ mới. Với các chính sách đồng bộ và định hướng rõ ràng, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào sự lớn mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ và nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

PV: Ông đánh giá ra sao về các chính sách của Nhà nước hiện nay đối với doanh nghiệp lớn, với doanh nghiệp nhỏ và vừa?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Hiện nay, các chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và vừa có sự khác biệt rõ rệt, phản ánh đặc điểm và nhu cầu riêng của từng nhóm.

Với doanh nghiệp lớn, chính sách thường tập trung vào việc tạo điều kiện thuận lợi để họ mở rộng quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, phát huy vai trò dẫn dắt trong các ngành kinh tế trọng điểm. Những hỗ trợ này có thể bao gồm ưu đãi về đầu tư, thuế, tiếp cận nguồn vốn lớn và tham gia các dự án lớn của quốc gia.

Ngược lại, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách thường nhấn mạnh việc hỗ trợ khởi nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận vốn, giảm chi phí kinh doanh, và cung cấp các chương trình đào tạo, tư vấn để nâng cao năng lực quản lý.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp khó khăn hơn trong việc tận dụng các chính sách hỗ trợ do hạn chế về nguồn lực và khả năng thích nghi.

Cần tiếp cận thận trọng, phù hợp với bối cảnh và đặc thù trong nước

PV: Để đưa Nghị quyết số 41-NQ/TW đi vào cuộc sống, theo ông, các quy định hỗ trợ của Việt Nam hiện nay đã đủ chưa? Chúng ta cần thêm những chính sách nào để hỗ trợ những doanh nghiệp vươn mình trở thành doanh nghiệp dân tộc?

Cần chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào đổi mới sáng tạo. (Ảnh trong bài: T.H)

Cần chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào đổi mới sáng tạo. (Ảnh trong bài: T.H)

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Để Nghị quyết số 41-NQ/TW đi vào cuộc sống, các quy định hỗ trợ hiện nay của Việt Nam vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện.

Một số chính sách hiện tại chưa đủ cụ thể hoặc chưa đáp ứng tốt yêu cầu thực tế. Ví dụ, việc phân bổ nguồn lực hỗ trợ còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trong khi các doanh nghiệp đầu tàu - hay “sếu đầu đàn” - chưa nhận được những ưu đãi mang tính đột phá để tạo đà phát triển mạnh mẽ hơn.

Theo tôi, cần thiết phải có những chính sách khác nhau cho từng nhóm doanh nghiệp, bởi mỗi nhóm có vai trò và nhu cầu hỗ trợ khác nhau. Cụ thể:

Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nên tập trung vào chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, tiếp cận vốn, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ. Các chính sách này giúp doanh nghiệp nhỏ phát triển bền vững và tạo nền tảng cho các doanh nghiệp lớn trong tương lai.

Với doanh nghiệp lớn: Cần có chính sách vượt trội, mang tính đột phá nhằm tạo điều kiện để những doanh nghiệp này vươn tầm khu vực và quốc tế. Điều này bao gồm ưu đãi thuế đặc biệt, hỗ trợ tài chính cho đổi mới sáng tạo và chính sách khuyến khích hợp tác công - tư trong các ngành kinh tế trọng yếu.

Đối với doanh nghiệp dân tộc: Đây là nhóm doanh nghiệp cần được ưu tiên hàng đầu với các chính sách đặc thù nhằm giúp họ đạt được vai trò dẫn dắt. Những doanh nghiệp này nên là các tập đoàn lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế, như Vingroup, Sungroup, Hòa Phát, Masan, hoặc các doanh nghiệp có tiềm năng trở thành “sếu đầu đàn” trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, năng lượng tái tạo và nông nghiệp hiện đại.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: "Những doanh nghiệp dân tộc nên là các tập đoàn lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế, như Vingroup, Sungroup, Hòa Phát, Masan, hoặc các doanh nghiệp có tiềm năng trở thành “sếu đầu đàn” trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, năng lượng tái tạo và nông nghiệp hiện đại".

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: "Những doanh nghiệp dân tộc nên là các tập đoàn lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế, như Vingroup, Sungroup, Hòa Phát, Masan, hoặc các doanh nghiệp có tiềm năng trở thành “sếu đầu đàn” trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, năng lượng tái tạo và nông nghiệp hiện đại".

Nhìn chung, để Nghị quyết số 41-NQ/TW thực sự phát huy hiệu quả, chính sách cần được thiết kế một cách toàn diện và linh hoạt, không chỉ dừng ở việc hỗ trợ riêng lẻ từng nhóm doanh nghiệp, mà còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp hợp tác, liên kết và cùng đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia.

Điều này không chỉ nâng cao sức cạnh tranh, mà còn giúp hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp bền vững, đáp ứng mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước.

PV: Mô hình của một số nước như keiretsu ở Nhật Bản, chaebol tại Hàn Quốc đều có những hạn chế khi xây dựng. Theo ông, chúng ta nên nhìn nhận những bất cập này như thế nào và ông có kiến nghị gì để có thể giảm thiểu những tác động khi phát triển doanh nghiệp dân tộc?

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Mô hình keiretsu ở Nhật Bản và chaebol tại Hàn Quốc mang lại nhiều bài học quý giá trong việc xây dựng doanh nghiệp dân tộc, nhưng cũng tồn tại không ít hạn chế cần được xem xét kỹ lưỡng khi áp dụng vào bối cảnh Việt Nam.

Những hạn chế này bao gồm tính tập trung quyền lực và độc quyền, khi một số ít gia tộc hoặc tập đoàn lớn thao túng thị trường, làm giảm tính cạnh tranh và gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ hơn tham gia chuỗi cung ứng.

Ngoài ra, sự phụ thuộc lớn vào hỗ trợ của Chính phủ khiến các doanh nghiệp này dễ bị tổn thương khi chính sách thay đổi hoặc nền kinh tế biến động. Mặt khác, việc mở rộng quá nhanh và đầu tư dàn trải cũng khiến nhiều tập đoàn lớn gặp rủi ro về tài chính và quản trị, dẫn đến nợ xấu hoặc phá sản khi gặp khủng hoảng toàn cầu. Thêm vào đó, mối quan hệ mật thiết giữa doanh nghiệp và chính trị tại một số nước còn dẫn đến nguy cơ tham nhũng và làm suy giảm lòng tin xã hội.

Để giảm thiểu những hạn chế này, Việt Nam cần có các giải pháp đồng bộ và phù hợp. Trước hết, cần xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ, minh bạch, nhằm kiểm soát tình trạng độc quyền và bảo đảm sự công bằng trong môi trường kinh doanh. Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp dân tộc thông qua các chính sách tài chính, thuế và khuyến khích đổi mới sáng tạo, nhưng tránh tình trạng bao cấp kéo dài.

Đồng thời, cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp lớn liên kết với doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thành hệ sinh thái kinh doanh bền vững. Việc giám sát mối quan hệ giữa doanh nghiệp và chính quyền cũng rất quan trọng để ngăn ngừa tham nhũng và lạm dụng chính sách. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn cần áp dụng chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế để đảm bảo hoạt động ổn định và giảm thiểu rủi ro tài chính.

Tuy nhiên, việc xây dựng doanh nghiệp dân tộc cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ mà chúng ta cần cảnh giác. Nếu không có chính sách hợp lý, sự ưu tiên quá mức cho các doanh nghiệp lớn có thể dẫn đến việc chèn ép các doanh nghiệp nhỏ, làm mất cân bằng trong hệ sinh thái kinh tế.

Một số doanh nghiệp có thể lạm dụng sự hỗ trợ từ Nhà nước để trục lợi mà không thực sự đóng góp vào sự phát triển chung. Hơn nữa, việc mở rộng nhanh ra thị trường quốc tế mà thiếu chuẩn bị kỹ lưỡng có thể khiến các doanh nghiệp này dễ tổn thương trước biến động toàn cầu. Các chính sách hỗ trợ cũng cần tránh tạo tâm lý ỷ lại, làm giảm động lực đổi mới và cạnh tranh.

Tóm lại, việc học hỏi từ các mô hình quốc tế và xây dựng doanh nghiệp dân tộc tại Việt Nam cần một cách tiếp cận thận trọng, phù hợp với bối cảnh và đặc thù kinh tế- xã hội trong nước.

Với chiến lược đúng đắn và chính sách cân đối, Việt Nam có thể phát triển đội ngũ doanh nghiệp dân tộc mạnh mẽ và bền vững, đóng vai trò dẫn dắt nền kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia trong thời kỳ mới.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Đọc thêm