UKVFTA mở cơ hội lớn cho sản phẩm xanh Việt Nam xuất khẩu sang Anh

(PLVN) - TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và Biến đổi Khí hậu toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam) cho biết: "Anh rất ưu tiên các hiệp định song phương như UKVFTA (giữa Việt Nam và Vương quốc Anh). Những sản phẩm xanh như trong lĩnh vực nông nghiệp, trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, trong lĩnh vực dệt may, thủy sản là những lĩnh vực rất có thế mạnh để xuất khẩu sang Anh".
Hình ảnh minh họa.
Hình ảnh minh họa.

Trước khi Hiệp định UKVFTA có hiệu lực, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Vương quốc Anh đã được thúc đẩy trong khuôn khổ cam kết của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), có hiệu lực từ 1/8/2020. Lúc đó, Vương quốc Anh vẫn chưa hoàn tất quá trình đàm phán Brexit để rời khỏi Liên minh Châu Âu, do đó cả Việt Nam và Vương quốc Anh đều thực hiện các cam kết trong khuôn khổ EVFTA.

Tuy nhiên, sau khi Vương quốc Anh chính thức rời khỏi Liên minh Châu Âu, từ ngày 1/1/2021, hai bên bắt đầu thực hiện các cam kết trong Hiệp định song phương UKVFTA. Tính đến nay, Việt Nam đã trải qua 4 năm triển khai những cam kết này trong khuôn khổ hiệp định thương mại song phương giữa hai quốc gia.

Bà Nguyễn Sơn Trà - Trưởng phòng WTO và đàm phán thương mại, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương cho biết: Trong thời gian đó, những hỗ trợ từ những cam kết tạo thuận lợi thương mại song phương giữa hai bên, cụ thể là những cam kết rất thuận lợi về mặt thuế quan. Vương quốc Anh cam kết cắt giảm thuế quan cho rất nhiều hàng hóa có triển vọng cũng như chiếm tỷ trọng thương mại rất lớn của Việt Nam sang Vương quốc Anh.

Ngược lại Việt Nam cũng có những cam kết rất thuận lợi giúp cho hàng hóa của Vương quốc Anh vào Việt Nam được dễ dàng hơn.

Cũng theo bà Trà, đây là những nền tảng rất tốt để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương giữa hai nước trong thời gian qua. Nếu như chúng ta nhìn vào các số liệu thống kê thì thấy tỉ lệ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên và trong đó có tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh đều tăng trưởng rất cao trong những năm vừa rồi.

Ví dụ, năm 2022, tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh đã tăng trưởng đến hai con số. Trong 10 tháng đầu năm 2024 thì tỉ lệ tăng trưởng cũng rất khả quan.

"Chúng tôi cho rằng với những thuận lợi từ những cam kết có được trong khuôn khổ FTA song phương giữa hai bên đã có tác dụng rất tốt đến việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại song phương giữa hai nước", bà Nguyễn Sơn Trà cho biết.

Theo bà Trà, trong khuôn khổ của Hiệp định này, hai bên cũng có những quy định liên quan đến việc cho phép sự tham gia đóng góp cũng như sự tham gia có ý kiến rộng rãi của các tổ chức phi Chính phủ thông qua cơ chế nhóm tư vấn trong nước (hay còn gọi tắt là DAG). Tuy nhiên nó không đặt ra các vấn đề về trừng phạt thương mại.

Thực tế trong thời gian qua khi triển khai Hiệp định, Chính phủ Việt Nam cũng như phía Vương quốc Anh đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ và có những trao đổi, đối thoại trong khuôn khổ của Chương Thương mại và Phát triển bền vững cũng như tổ chức các diễn đàn chung giữa cơ quan Chính phủ của hai bên với các tổ chức có quan tâm để từ đó tiếp nhận những ý kiến, đóng góp để làm sao mà hai bên có thể thực hiện được hiệu quả hơn những cam kết trong Chương Thương mại và phát triển bền vững của Hiệp định UKVFTA.

Khi nói về các điểm nổi bật của xu hướng gia tăng, các chính sách thương mại xanh trên thế giới nói chung và của Anh, TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và BĐKH toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam) cho biết, các chính sách thương mại xanh hiện nay không chỉ có tính thời sự mà là một xu hướng lâu dài, ảnh hưởng đến các nền kinh tế trên thế giới. Thực tế, các chính sách thương mại xanh này đã và đang trở thành trụ cột, trọng tâm trong các chính sách kinh tế của các quốc gia trên thế giới.

Theo TS Huấn, muốn bắt đầu trao đổi bằng việc các động lực nào để xu hướng thương mại xanh này diễn ra thì có 3 yếu tố: Thứ nhất, đó là áp lực từ biến đổi khí hậu; Thứ hai, do nhu cầu của chính các quốc gia muốn tái cấu trúc nền kinh tế của mình theo hướng xanh phát triển bền vững hơn; Thứ ba, các quốc gia đã và đang cam kết quốc tế rất mạnh mẽ, ví dụ như Thỏa thuận Paris chẳng hạn.

Cũng theo TS. Huấn, hiện nay theo như quan sát của tôi đã có hơn 70 quốc gia đã đưa các tiêu chuẩn xanh vào trong các hoạt động thương mại của mình. Anh là một nền kinh tế hàng đầu thế giới, một nền kinh tế dẫn dắt. Vì vậy mà Anh cũng là một trong những quốc gia tiên phong trong việc xây dựng và thúc đẩy triển khai các chính sách thương mại xanh.

Trên phạm vi toàn cầu, các điểm nổi bật của xu hướng chính sách xanh trên thế giới nói chung đi theo 3 điểm: Nhóm chính sách thứ nhất, liên quan đến chính sách ưu đãi cho các sản phẩm xanh. Rất nhiều quốc gia thực hiện các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho các sản phẩm thân thiện với môi trường, ví dụ như năng lượng tái tạo, các sản phẩm từ ngành công nghiệp tái chế, công nghệ sạch.

Nhóm thứ hai, các nhóm chính sách liên quan đến quy tắc xuất xứ hoặc nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm có tiêu chuẩn xanh;

Nhóm thứ ba, nhóm mang tính bao trùm hơn. Đó là những chính sách liên quan đến phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Bởi vì hiện nay thì rất nhiều quốc gia, kể cả ở G7, EU rồi các quốc gia Châu Á cũng đã thực hiện các cam kết về giảm phát thải và trong đó có giảm rác thải trong các chuỗi cung ứng.

Vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp của Việt Nam đáp ứng các yêu cầu về kinh tế xanh, thương mại xanh của thị trường xuất khẩu nói chung, và thị trường Anh, TS. Lê Huy Huấn cho rằng, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất chủ động và đã có những bước đi khá rõ nét.

Thứ nhất, ở phạm vi các cơ quan quản lý, thông qua các chính sách thì Việt Nam đã và đang xây dựng nhiều những chính sách hướng đến chuyển đổi xanh, phục vụ cho cả quá trình thương mại xanh. Ví dụ như chúng ta có Chiến lược về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030; trong Chiến lược này có các mục tiêu rất cụ thể liên quan đến giảm phát thải carbon, liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững.

Chúng ta đang xây dựng và phát triển thị trường carbon, đồng thời thiết lập các quy định về việc trao đổi tín chỉ carbon trên thị trường này. Cùng với đó, nhiều chính sách hỗ trợ cũng như yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện chuyển đổi, đáp ứng các tiêu chuẩn liên quan đến việc giảm phát thải trong quá trình sản xuất. Một trong những chính sách quan trọng là Đề án quốc gia về kinh tế tuần hoàn, nhằm thúc đẩy sự chuyển đổi bền vững và bảo vệ môi trường.

Thứ hai, về hỗ trợ kỹ thuật, tôi nhận thấy Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng VCCI trong thời gian qua đã tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm, và chương trình đào tạo ngắn hạn cũng như dài hạn cho doanh nghiệp. Những hoạt động này giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức về các xu hướng mới trên thị trường thương mại toàn cầu, đồng thời củng cố năng lực ứng phó với các thay đổi, chuyển đổi công nghệ và thực hiện minh bạch các quy trình sản xuất, chuỗi cung ứng.

Thứ ba, chính sách hợp tác quốc tế đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhờ các chính sách hợp tác quốc tế này, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã được hưởng lợi từ các sáng kiến quốc tế.

"Từ những nỗ lực đó, tôi tin rằng Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất chủ động và tích cực. Và trong thời gian tới, những kết quả tích cực từ sự chuẩn bị này sẽ ngày càng rõ ràng hơn" - TS.Lê Huy Huấn nói.

Đọc thêm