Việt Nam - điểm đến mới của “sức mạnh mềm” châu Á?
Ở thời điểm này, đặt ra câu hỏi này cũng không còn là quá sớm. Bởi theo TS. Bùi Quốc Liêm (ĐH RMIT), năm 2024 đã đánh dấu bước ngoặt của du lịch Việt Nam khi đón 17,5 triệu lượt khách quốc tế, vượt Singapore và tăng gần 40% so với năm 2023. Đây chính là thời điểm để Việt Nam xác định những công cụ “sức mạnh mềm” hiệu quả nhất là điện ảnh và âm nhạc - nổi lên như hai trụ cột cần được ưu tiên đầu tư và phối hợp bài bản với ngành du lịch. Hay nói cách khác, việc định vị điện ảnh và âm nhạc như những “mũi nhọn xuất khẩu văn hóa” là bước đi chiến lược.
Các bộ phim quốc tế quay tại Việt Nam như “Kong: Skull Island hay A Tourist’s Guide to Love” đã chứng minh sức mạnh quảng bá du lịch qua hình ảnh điện ảnh. Cảnh sắc tại Quảng Bình, Hà Giang hay Hội An không chỉ gây ấn tượng về thị giác mà còn trở thành điểm đến thực sự sau khi phim phát sóng. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi Hàn Quốc, New Zealand hay Anh quốc để phát triển mô hình “du lịch điện ảnh”. Từ hỗ trợ bối cảnh quay, ưu đãi thuế, đến phát triển tour du lịch theo phim - đây là hướng đi cần sự phối hợp bài bản giữa ngành văn hóa và du lịch.
Nếu điện ảnh truyền cảm hứng, thì âm nhạc tạo kết nối. V-pop đang cho thấy khả năng bùng nổ quốc tế: See Tình, Bắc Bling hay các tên tuổi như Sơn Tùng M-TP, Mỹ Tâm, Đen Vâu… đều có sức lan tỏa vượt biên giới. Đặc biệt, việc các MV gắn với địa danh như Bắc Ninh, Huế, Phú Quốc… có thể biến chính những nơi ấy thành điểm đến hấp dẫn cho du khách toàn cầu. Các lễ hội âm nhạc tại Hà Nội, TP HCM hay Đà Nẵng nếu được quy hoạch thành sự kiện thường niên, kết hợp quảng bá du lịch và đơn giản hóa thị thực, sẽ giúp Việt Nam trở thành điểm đến âm nhạc sôi động của châu Á.
Cạnh đó, TikTok, YouTube, Instagram… đang trở thành trạm phát sóng “sức mạnh mềm”. Những video hậu trường quay phim, clip biểu diễn tại di tích, hay MV quay tại danh thắng hoàn toàn có thể trở thành "quảng cáo du lịch không lời". Để đẩy mạnh điều này, Việt Nam cần chủ động hợp tác với KOL quốc tế, nghệ sĩ, nhà sáng tạo nội dung, biến các địa danh văn hóa thành "viral destination" toàn cầu…
Ngày 29/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-TTg về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Chỉ thị này nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa, xác định đây là yếu tố quan trọng, bền vững, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội và định vị thương hiệu quốc gia. Tới đây, Bộ VH,TT&DL trình Thủ tướng ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm tạo động lực mới thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phát triển. Theo Bộ VH,TT&DL, Chiến lược phải thúc đẩy công nghiệp văn hóa ở tầm cao mới với mục tiêu tổng quát là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng. Qua đó, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam và khẳng định thương hiệu, vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành công nghiệp văn hóa để tăng cường tính quảng bá, lan tỏa các giá trị văn hóa, lịch sử đất nước, con người Việt Nam, thúc đẩy giao lưu, hội nhập quốc tế và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong đó, hướng đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP quốc gia…
Cũng theo Bộ VH,TT&DL, đến năm 2030, có từ 5 đến 10 thương hiệu quốc gia tham gia sâu rộng và khẳng định thương hiệu trên thị trường quốc tế. Các sản phẩm công nghiệp văn hóa được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy phát triển và gia tăng giá trị. Đặc biệt, đến năm 2045, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phấn đấu doanh thu đóng góp 9% GDP và thu hút 6 triệu lao động để trở thành quốc gia phát triển về công nghiệp văn hóa trong khu vực châu Á; đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới.
“Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khi ban hành phải nâng cao nhận thức xã hội, thể hiện được tầm nhìn mới về công nghiệp văn hóa, nâng cao vị thế các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trong đời sống kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, tạo cơ chế, chính sách để huy động tối đa nguồn lực cho phát triển công nghiệp văn hóa. Chúng ta cần những chủ trương, chính sách có tính dẫn dắt, kiến tạo nhằm tạo ra những động lực mới để các doanh nghiệp của xã hội làm công nghiệp văn hóa” - theo Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL Hồ An Phong.
Việt Nam nỗ lực đưa văn hóa vào trung tâm của sự phát triển bền vững
Cũng cần nhấn mạnh rằng, việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam dựa trên chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Đây là việc làm nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa nguồn lực văn hóa, con người Việt Nam, tạo sức mạnh nội sinh, trở thành động lực quan trọng góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển bền vững đất nước… Phát triển công nghiệp văn hóa trong sự chú trọng bản sắc văn hóa dân tộc, đất nước.
![]() |
Biểu diễn bài chòi tại Quảng Ngãi. (Nguồn: Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi) |
Về vấn đề này, ngày 20/6/2025 vừa qua, Việt Nam đón tin vui khi lần thứ ba tham gia Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa.
Trong những thập niên đầu của thế kỷ 21, sự bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông… là điều kiện thuận lợi diễn ra quá trình toàn cầu hóa. Bên cạnh cơ hội quảng bá bản sắc văn hóa của các dân tộc, toàn cầu hóa đem đến tác động tiêu cực đối với những giá trị truyền thống cũng như làm gia tăng tính ngoại lai trong hoạt động và dịch vụ văn hóa. Trong bối cảnh đó, việc ra đời một Công ước mới trong khuôn khổ UNESCO về đa dạng văn hóa là một yêu cầu cần thiết. Ngày 20/10/2005, Đại hội đồng UNESCO đã bỏ phiếu thông qua Công ước UNESCO về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa (Công ước UNESCO 2005). Công ước chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 18/3/2007. Việt Nam là một trong những nước nỗ lực tham vào quá trình soạn thảo và sớm phê chuẩn Công ước UNESCO 2005. Đặc biệt, sau khi phê chuẩn Công ước, Việt Nam trúng cử và đảm nhiệm thành công vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ và Phó Chủ tịch Đại hội đồng Công ước UNESCO nhiệm kỳ 2011 - 2015. Việt Nam cũng được đánh giá là thành viên có trách nhiệm của UNESCO và có đóng góp thiết thực trong công việc của tổ chức.
Kể từ khi phê chuẩn Công ước UNESCO 2005 đến nay, nhiều chính sách văn hóa Việt Nam được xây dựng dựa trên tinh thần Công ước. Ví dụ như năm 2024, trong nỗ lực thực thi Công ước, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu, trong đó nổi bật là việc Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 với tổng số vốn đầu tư gần 5 tỷ đô la Mỹ, trong đó đặt ra một loạt mục tiêu toàn diện, cụ thể cho văn hóa Việt Nam trong 10 năm tới. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-Tg về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Trên tinh thần đó, năm 2025, Bộ VH,TT&DL trình Thủ tướng ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm tạo động lực mới thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phát triển…
Việt Nam hiện là thành viên Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO 2005 nhiệm kỳ 2021 - 2025. Từ ngày 18 - 20/6/2025 vừa qua tại trụ sở UNESCO (Paris, Pháp) đã diễn ra kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 10 Công ước UNESCO 2005. Tại kỳ họp Đại hội đồng lần này, các quốc gia thành viên Công ước tín nhiệm bầu Việt Nam tái đắc cử thành viên Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO 2005 nhiệm kỳ 2025 - 2029.
Đây là trường hợp đầu tiên từ khi Công ước UNESCO 2005 ra đời, một quốc gia tham gia Ủy ban liên Chính phủ hai nhiệm kỳ liên tiếp và đây là lần thứ ba Việt Nam tham gia Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO 2005. Điều này chứng tỏ sự ghi nhận của Đại hội đồng đối với những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc triển khai Công ước UNESCO 2005, đồng thời thể hiện sự đóng góp tích cực và uy tín của Việt Nam tại Tổ chức Giáo dục, Văn hóa và Khoa học của Liên hợp quốc.
Tham dự kỳ họp vừa qua, TS. Nguyễn Phương Hòa - Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế, Bộ VH,TT&DL - cơ quan đầu mối quốc gia của Công ước UNESCO 2005 nhấn mạnh, Công ước UNESCO 2005 được thông qua 20 năm trước là hành động mạnh mẽ của ý chí và nỗ lực tập thể của sự đoàn kết quốc tế. Các biểu đạt văn hóa là cốt lõi của bản sắc, đại diện cho các cộng đồng và khát vọng của chúng ta. Đa dạng văn hóa là một di sản chung của nhân loại cần được bảo vệ và phát huy cho các thế hệ hôm nay và tương lai.
Chia sẻ về những nỗ lực của Việt Nam trong việc phát triển văn hóa, TS. Nguyễn Phương Hòa khẳng định, các chính sách của Việt Nam luôn lấy con người làm trung tâm, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nuôi dưỡng sự sáng tạo, bảo đảm các quyền hưởng thụ văn hóa của người dân, văn hóa là một trong những trụ cột của phát triển bền vững. “Chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để văn hóa có sự hiện diện vững chắc trong chương trình nghị sự toàn cầu về phát triển bền vững, đặc biệt khi thế giới đang hướng tới khung chương trình nghị sự sau 2030”, đại diện Việt Nam phát biểu.