Đối mặt với nguy cơ… dân số già
Hội thảo diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang duy trì mức sinh thay thế, song có sự chênh lệch giữa các vùng miền, đối tượng, đồng thời tỷ lệ vô sinh cao, ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu dân số trong tương lai.
Chia sẻ tại Hội thảo “Mức sinh thấp tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương lo ngại thông tin, trên thế giới, mức sinh ở hầu hết các châu lục đều liên tục giảm và giảm xuống rất thấp so với mức sinh thay thế tại các quốc gia Châu Âu, Hàn quốc, Nhật Bản dẫn đến thiếu hụt nguồn lao động, các vấn đề về già hóa dân số và chăm sóc người cao tuổi. Dự báo tình trạng thiếu lao động sẽ phổ biến trên toàn thế giới sau năm 2055, ảnh hưởng đến phát triển không bền vững về con người, một thách thức hàng đầu của nhân loại trong thế kỷ 21.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương cho hay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác dân số, trong đó tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 và tiếp tục duy trì cho đến nay. Nước ta đã bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ năm 2007 đã đóng góp tích cực cho phát triển KT - XH của Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Y tế cũng quan ngại khi Việt Nam là một trong các quốc gia tỷ lệ vô sinh cao (khoảng 7,7%), (trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%), ảnh hưởng đến hàng triệu cá nhân, cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn chờ mong hạnh phúc làm cha, mẹ. Đây cũng chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến mức sinh ngày càng thấp.
Luẩn quẩn với bài toán mức sinh thấp
Thông tin tại buổi Hội thảo, ThS.BS. Mai Trung Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Quy mô Dân số - KHHGĐ (Tổng cục Dân số - KHHGĐ) cho biết: Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển từ mức sinh cao sang mức sinh thấp, từ mô hình sinh sớm sang mô hình sinh muộn, từ mức chết cao sang mức chết thấp, từ cơ cấu “dân số trẻ” sang giai đoạn “già hoá dân số” và chuyển sang “dân số già”; Từ cơ cấu “dân số phụ thuộc” sang cơ cấu “dân số vàng”.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ cho vùng mức sinh thấp đó là: Tập trung tuyên truyền vào lợi ích của việc sinh đủ 2 con; Các yếu tố bất lợi của việc kết hôn, sinh con quá muộn, sinh ít con đối với phát triển KT - XH, đối với gia đình và chăm sóc bố, mẹ khi về già; Tập trung vận động nam, nữ thanh niên không kết hôn muộn, không sinh con muộn, mỗi cặp vợ chồng sinh đủ 2 con và nuôi dạy con tốt… Cùng với đó, tổ chức thí điểm và từng bước mở rộng các biện pháp hỗ trợ các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con ở vùng mức sinh thấp. Một số nội dung hỗ trợ, khuyến khích cần thí điểm như sau: Khuyến khích nam, nữ kết hôn trước 30 tuổi, không kết hôn muộn và sớm sinh con, phụ nữ sinh con thứ 2 trước 35 tuổi; Xây dựng môi trường, cộng đồng phù hợp với các gia đình nuôi con nhỏ; Hỗ trợ phụ nữ khi mang thai, sinh con; Hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con…
Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 cũng nhấn mạnh mục tiêu: “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng”. Đây là những định hướng chính sách về dân số rất kịp thời nhằm cải thiện mức sinh thấp tại một số vùng, tỉnh, thành phố, đặc biệt là nơi xuất hiện xu hướng mức sinh thấp. Để đạt được điều này, theo BS Mai Trung Sơn, đòi hỏi phải có chính sách, chiến lược hỗ trợ trong thời gian tới.
Trong khi Việt Nam vẫn đang loay hoay với bài toán mức sinh thấp, Bộ công cụ chính sách can thiệp thực tiễn mức sinh cho các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do tổ chức Economist Impact nghiên cứu đã được công bố. Bộ công cụ là một phần quan trọng trong dự án Fertility Counts- một sáng kiến nhằm giải quyết các thách thức về kinh tế và xã hội liên quan đến mức sinh thấp ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với sự tài trợ của Merck Healthcare. Fertility Counts là dự án toàn cầu với sự tham gia của các nhà nghiên cứu, quản lý nhà nước và tư nhân, xem xét các tác động về kinh tế và xã hội do mức sinh suy giảm và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần cải thiện thực trạng này. Sáng kiến của Fertility Counts đã được ASPIRE - Tổ chức của các chuyên gia lĩnh vực sinh sản khu vực Châu Á - Thái Bình Dương công nhận. Đây sẽ là một công cụ giúp cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam tham khảo, xem xét, nghiên cứu, đánh giá tính khả thi khi áp dụng vào thực tiễn.
Thông tin cụ thể hơn về chính sách hỗ trợ này, TS. BS Hà Anh Đức - Chánh Văn phòng Bộ Y tế cho biết, Bộ công cụ này đề cập đến 4 nhóm chính sách: Chăm sóc trẻ em; Chính sách tại nơi làm việc; Ưu đãi tài chính và Hỗ trợ sinh sản. Bộ công cụ này sẽ rất hữu ích cho những quốc gia phát triển, đang phát triển trong việc khuyến khích sinh đẻ tại các vùng có tỷ lệ sinh thấp, đồng thời giảm sinh tại các khu vực có mức sinh cao và nhiều hỗ trợ khác. “Hiệu quả của các biện pháp can thiệp phụ thuộc vào điều kiện KT – XH, quy mô dân số của mỗi quốc gia, cũng như việc sắp xếp, bố trí lại hệ thống y tế cơ sở cho phù hợp và các chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em” – TS. BS Hà Anh Đức cho hay./.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2021 mức sinh cao chiếm 42% dân số (33 tỉnh/TP) tập trung tại các vùng phía Bắc, mức sinh thông thường chiếm 19% dân số (9 tỉnh/TP) và mức sinh thấp chiếm đến 39% dân số (21 tỉnh/TP). Mức sinh toàn bộ các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ (trừ Bình Phước) và vùng Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ giảm mà còn giảm sâu, có mức sinh thực tế đều dưới mức sinh thay thế. Trong đó một số tỉnh, thành phố có mức sinh rất thấp tới 1,48 con. Nếu dưới 1,3 sẽ không có khả năng khôi phục mức sinh thay thế.