Vùng “phên dậu” Trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước

(PLVN) - Phát biểu tại Hội nghị Ban Chỉ đạo Hội nghị Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án tổng kết thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW, ông Trần Tuấn Anh  - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương (Ban KTTW), Trưởng Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết - đánh giá, vùng Trung du và miền núi Bắc bộ là vùng “phên dậu” của Tổ quốc nhưng đây vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước...
Toàn cảnh Hội nghị
Toàn cảnh Hội nghị

Thực hiện Chương trình công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021, sáng nay - 8/6, Ban KTTW đã tổ chức Hội nghị Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2020.

Trưởng Ban KTTW Trần Tuấn Anh phát biểu tại Hội nghị.

Trưởng Ban KTTW Trần Tuấn Anh phát biểu tại Hội nghị.

Phát biểu tại Hội nghị, Trưởng Ban KTTW Trần Tuấn Anh nhấn mạnh: Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Đây là vùng “phên dậu” và “lá phổi” của Tổ quốc, là “cội nguồn” của dân tộc và là an toàn khu, “cái nôi” của cách mạng Việt Nam, có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững, tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú; có nhiều di sản văn hoá đặc sắc, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Với ý nghĩa, vai trò quan trọng như vậy, vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 và Kết luận số 26-KL/TW ngày 02/8/2012 nhằm phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020.

Mục tiêu Nghị quyết 37-NQ/TW đặt ra là: “Đẩy nhịp độ phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc bộ cao hơn nhịp độ phát triển chung của cả nước; cải thiện rõ rệt hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng an ninh của vùng; khai thác mạnh các nguồn tài nguyên, thế mạnh về đất đai, khí hậu, khoáng sản, thủy điện, lợi thế về cửa khẩu để phát triển các ngành kinh tế; hoàn thành định canh, định cư và đưa dân trở lại biên giới; hạn chế tối đa việc di dân tự do vào Nam và các vùng khác; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh, ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia”.

Sau 17 năm (2004-2020) thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW, phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhiều điểm nghẽn, hạn chế dần được khơi thông, lợi thế trong nhiều ngành, lĩnh vực được phát huy, bản sắc văn hóa các dân tộc được giữ gìn và phát huy, đời sống của nhân dân trong vùng không ngừng được cải thiện.

“Phần lớn các chỉ tiêu nhiệm vụ của Nghị quyết 37-NQ/TW và Kết luận 26-KL/TW cơ bản được hoàn thành. Quy mô nền kinh tế được mở rộng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; hệ thống đô thị vùng và đô thị trung tâm cấp vùng được hình thành; môi trường đầu tư kinh doanh và cải cách hành chính của các tỉnh trong vùng đang dần được cải thiện; hoạt động hợp tác, liên kết nội vùng được triển khai thực hiện; chính trị ổn định, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố; quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước…” - Trưởng Ban KTTW nhấn mạnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hiệu quả nêu trên, Trưởng Ban KTTW cũng nhấn mạnh, vùng Trung du và miền núi Bắc bộ vẫn còn nhiều hạn chế và đây vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước.

Cụ thế, thu nhập bình quân đầu người thấp; tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều chỉ số về văn hoá, xã hội đạt mức thấp hơn trung bình toàn quốc. Quy mô kinh tế vùng nhỏ. Cơ cấu kinh tế chưa hiện đại, chuyển dịch chậm; phát triển của các địa phương trong vùng chưa đồng đều. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia công. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp. Du lịch phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chậm cải thiện. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp.

“Nhiều hạn chế, yếu kém mà Nghị quyết 37-NQ/TW và Kết luận 26-KL/TW chỉ ra chưa được cải thiện nhiều…”- Trưởng Ban KTTW Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.

Chỉ ra những hạn chế, yếu kém cũng như phân tích về nguyên nhân khách quan và chủ quan, ông nhấn mạnh: “Xác định vai trò, vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đối với cả nước, nhất là để khắc phục, tháo gỡ những nút thắt, nhằm định hướng phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc bộ trong thời gian tới, Bộ Chính trị đã giao Ban KTTW chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan tổ chức Tổng kết Nghị quyết 37-NQ/TW. Kết quả tổng kết là cơ sở quan trọng để Ban Chỉ đạo và Ban KTTW tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề ra các định hướng, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.”

Đánh giá cao sự tích cực làm việc, đóng góp những ý kiến thẳng thắn, tâm huyết và có tính gợi mở rất cao của các đại biểu, Trưởng Ban KTTW đề nghị các thành viên trong Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phát huy tinh thần sáng tạo, vào cuộc quyết liệt, khẩn trương, nghiêm túc thực hiện sự phân công của Ban Chỉ đạo nhằm hoàn thành các mốc tiến độ đề ra, xây dựng thành công Đề án tổng kết.

Trên cơ sở đó, đề xuất Bộ Chính trị ban hành nghị quyết mới “Phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến 2030, tầm nhìn 2045”, phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới, nhất là thực hiện định hướng phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc bộ được nêu tại Nghị quyết Đại hội XIII.

"Tập trung bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn và có chế độ đãi ngộ tốt hơn đối với người trồng rừng, giữ rừng. Phát triển lâm nghiệp bền vững, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, cây dược liệu, chăn nuôi gia súc gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển hiệu quả các cơ sở khai thác gắn với chế biến sâu các loại khoáng sản. Phát triển kinh tế vùng biên, tăng cường quản lý nhà nước, phát huy vai trò kinh tế cửa khẩu. Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn nước các hồ, đập để điều tiết nước sản xuất và sinh hoạt. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với vùng đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội. Khai thác thế mạnh về bản sắc văn hoá và điều kiện thiên nhiên để đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng; du lịch sinh thái”.(Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 tại Đại hội XIII)

Đọc thêm