Theo Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng, bản Quy hoạch vùng này có ý nghĩa quan trọng, với tư duy mới, tầm nhìn mới, có sự bứt phá hướng đến việc chủ động kiến tạo để phát triển; tập trung xác định và giải quyết các vấn đề lớn, có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; mạnh dạn tái cơ cấu kinh tế, tổ chức lại không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh 8 chữ “Bản sắc - Sinh thái - Liên kết - Hạnh phúc” để thể hiện nội dung của Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Về bản sắc, vùng TD&MNPB là địa bàn có nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống với bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng, là dân tộc “đa số” thay vì quan niệm dân tộc thiểu số thông thường; nhiều di tích lịch sử, văn hóa có tiềm năng mang lại lợi ích kinh tế cho người dân địa phương, tạo ra động lực mới cho sự phát triển vùng.
Quy hoạch vùng TD&MNPB đã nhấn mạnh công tác giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa các dân tộc hướng tới xây dựng hệ thống đô thị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt nhấn mạnh việc giữ chân nguồn nhân lực, phát triển du lịch và nông nghiệp dựa trên giá trị bản sắc của các cộng đồng bản địa.
Về sinh thái, vùng TDMNPB đang được đánh giá có rất nhiều tiềm năng về phát triển các lĩnh vực kinh tế xanh, gắn với rừng và dịch vụ môi trường rừng.
Để hướng tới hình mẫu phát triển xanh của cả nước, quy hoạch đã đề ra các nội dung gồm: Phát triển vùng trên cơ sở bảo đảm sinh thái bền vững; Đề xuất hình thành các hành lang phát triển sinh thái liên tỉnh, liên vùng thông qua kết nối những khu vực sinh thái trọng điểm và rừng phòng hộ bằng những hành lang xanh;
Về liên kết, coi liên kết phát triển vùng là xu thế tất yếu, là động lực kết nối và dẫn dắt sự phát triển của các địa phương trong vùng. Liên kết vùng nhằm phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, lợi thế nhờ quy mô của cả vùng, nhất là lợi thế về kinh tế lâm nghiệp, giúp giải quyết những vấn đề phát triển chung của vùng, nhất là trong bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, bão, lũ và thích ứng với biến đổi khí hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng trong cả nước.
Nội dung về liên kết vùng trong bản Quy hoạch vùng đã tập trung phát triển hạ tầng kết nối vùng. Trong đó, ưu tiên các kết nối kết nối vùng với Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và quốc tế; các kết nối Đông - Tây; kết nối quốc tế qua Lào; kết nối về phía biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng, với việc ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị; đẩy nhanh tiến độ khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn - Hà Nội, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Đồng thời, liên kết để phát triển theo 05 hành lang kinh tế (Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ - Hà Nội; Lạng Sơn - Bắc Giang - Hà Nội; Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội; Hà Giang - Tuyên Quang - Phú Thọ - Hà Nội; Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên - Hà Nội), và khu vực động lực tại vành đai Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ gắn với vùng Thủ đô.
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng |
Đặc biệt, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và liên kết vùng đủ mạnh. Tăng cường vai trò của các địa phương trong Hội đồng điều phối vùng, bảo đảm liên kết vùng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của các địa phương, trong đó tập trung vào những vấn đề then chốt như: Điều tiết, cân bằng lợi ích giữa các địa phương như xử lý các xung đột về lợi ích, đặc biệt là trong phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu; Điều hòa lợi ích của quốc gia và lợi ích của từng địa phương: Và khuyến khích liên kết tự nguyện giữa các địa phương thông qua các chương trình hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và chính sách tạo thuận lợi, khuyến khích địa phương liên kết.
Về phát triển nguồn nhân lực, tăng cường phối hợp và liên kết trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực; chia sẻ, liên kết trong phát triển khoa học và công nghệ hướng vào giải quyết những vấn đề công nghệ đặt ra trong phát triển vùng; hình thành và tăng cường liên kết mạng lưới các trung tâm ứng dụng công nghệ cao.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, liên kết các địa phương trong khai thác tiềm năng, lợi thế về phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch và kinh tế cửa khẩu; tích cực xử lý các vấn đề mang tính chất vùng như môi trường, sinh thái, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, an ninh nguồn nước, an ninh rừng.
Về hạnh phúc, phát triển kinh tế phải đi kèm với tiến bộ, công bằng xã hội. Bản quy hoạch này đã đề ra các định hướng nhằm giải quyết nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh biên giới, nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là y tế, giáo dục đào tạo; qua đó nâng cao sự hài lòng của Nhân dân về cuộc sống, trong đó có các yếu tố về sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân; lấy sự hạnh phúc của người dân làm thước đo về sự thành công của định hướng phát triển.
“Những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá phát triển nêu trên là hết sức quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của vùng TD&MNPB trong giai đoạn tới…”- Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Toàn bộ hồ sơ Quy hoạch vùng TD&MNPB thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được chuyển giao cho các địa phương và được thông tin công khai tại Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch - Bộ KH&ĐT.
Dự kiến sáng nay - 24/5, Chính phủ tổ chức Hội nghị Hội đồng điều phối vùng TD&MNPB; đồng thời công bố quy hoạch Vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đây là bản quy hoạch được Bộ KH&ĐT chủ trì xây dựng bài bản, nghiêm túc, đúng quy định; với nhiều tư duy mới, tầm nhìn mới, mang tính chiến lược.