Sốt xuất huyết Dengue (đăng cách nhiệt - 豋革熱), thuộc phạm vi chứng ôn dịch, thời độc của y học cổ truyền.
Trong các cuộc chiến tranh lính quân đội Mỹ, Nhật chết vì các loại dịch bệnh ( Ôn bệnh, dịch lệ,…) rất nhiều trong đó có Sốt xuất huyết. Họ rất ngạc nhiên khi quân đội Việt Nam lại ít bị ảnh hưởng vì điều này. Chúng ta tự hào có một bề dày kinh nghiệm dân gian và nền văn hóa chữa bệnh bằng tự nhiên đầy bản sắc. Chỉ với các loại cây cỏ và lá rừng, chúng ta đã kiểm soát và chữa khỏi nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm, giữ gìn sức khỏe để chiến đấu và giành thắng lợi.
Đời cha ông chúng ta, dịch sốt xuất huyết đã xảy ra nhiều khu vực có khi cả nhiều xã, nhiều huyện, .. nhưng với kinh nghiệm dân gian và thuốc Nam người Việt chúng ta cũng đã kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh tỷ lệ tử vong rất thấp.
Sốt xuất huyết Dengue là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Dengue gây nên qua trung gian truyền bệnh là muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus. Bệnh có biểu hiện lâm sàng chủ yếu là sốt và xuất huyết, nặng có thể sốc, nguy hiểm đến tính mạng. Những rối loạn sinh lý bệnh trong sốt xuất huyết Dengue bao gồm: Tăng tính thấm thành mạch và rối loạn đông máu. Hai rối loạn này tác động lẫn nhau gây ra các triệu chứng lâm sàng nặng đó là sốc và xuất huyết.
Theo WHO, sốt xuất huyết Dengue chia thành 4 độ:
- Độ I: Sốt và dấu hiệu dây thắt (+), không có xuất huyết tự nhiên.
- Độ II : Sốt và xuất huyết tự nhiên dưới da hoặc niêm mạc.
- Độ III: Như độ I, II kèm theo mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt hoặc kẹt, da lạnh, kích thích vật vã.
- Độ IV : Sốc sâu, không đo được huyết áp.
Hiện tại, y học hiện đại chưa có thuốc điều trị đặc hữu, thường điều trị theo triệu chứng bệnh và hồi sức cấp cứu những trường hợp nặng.
|
Cần phối hợp toàn diện giữa y học cổ truyền và y học hiện đại để kiểm soát dịch, phòng và điều trị sốt xuất huyết |
Phòng và điều trị sốt xuất huyết Dengue theo y học cổ truyền
Nguyên nhân triệu chứng : Bệnh do nhiệt độc gây ra. Độ I, nhiệt độc xâm nhập vào phần vệ và phần khí gây nên. Độ II, nhiệt độc truyền vào phần dinh, huyết, lạc, mạch gây nên. Độ III, IV nhiệt độc ứ kết ở phần dinh, huyết.
Y học cổ truyền điều trị tốt trong các trường hợp sốt xuất huyết Dengue độ I và II; độ III, IV cần có sự kết hợp với hồi sức cấp cứu theo y học hiện đại.
· Độ I và II
- Pháp: Thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, chỉ huyết
- Bài Thuốc nam đơn giản (dùng cho cả độ I, II và giai đoạn có sốt)
Cỏ nhọ nồi 20g
Hoa Hoè 20g
Trắc bách diệp (sao đen) 20g
Kim ngân hoa 20g
Liên kiều 12g
Lá tre tươi 12g
Rễ cỏ tranh 16g
Nếu giảm tiểu cầu nhiều thêm lá Phi Lao ( sao đen ) 30 gram ( Vị thuốc được sử dụng để bổ máu, cầm máu, tăng tiểu cầu ,.. của bộ đội ta giai đoạn chiến tranh thiếu máu để truyền )
Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần, sau ăn (trẻ em dùng liều 1 – 5 tuổi bằng 1/3 người lớn, 6 – 13 tuổi bằng 1/2 người lớn). Dùng tối đa 3 ngày, ngừng khi bệnh nhân hết sốt. Sau đó, chỉ cần uống Cỏ nhọ nồi sao đen, Trắc bách diệp sao đen, Hoa hoè sao đen mỗi vị 20g.
- Có thể kết hợp thêm bột Địa long (đã qua bào chế) 6 – 8g mỗi ngày, chia 2 lần ( uống riêng ) thì càng hiệu quả.
- Nếu không có đủ các vị thuốc trên, ngay ngày đầu đang sốt cao có thể dùng 40g cỏ nhọ nồi tươi rửa sạch, giã, uống, ngày thứ 3 khi hạ sốt thì sao đen tồn tính cỏ nhọ nồi sắc uống.
- Châm cứu: Giai đoạn này châm cứu rất quan trọng, nếu châm đúng huyệt và đúng kỹ thuật thì sau 1 ngày có thể thấy xuất huyết nhẹ dưới da, 3 ngày khỏi bệnh. Châm tả các huyệt: Khúc trì, hợp cốc, nội đình, đại chuỳ…Châm các huyệt này còn có tác dụng hạ sốt hiệu quả ( Sốt là phản ứng của cơ thể để đẩy virus ra ngoài, chúng ta không nên lạm dụng thuốc hạ sốt vì nếu dùng nhiều khả năng sốc và biến chứng càng cao )
Bài thuốc trên có thể dùng để phòng bệnh cho người chưa mắc bệnh sống trong vùng dịch, nên uống từ 7 – 10 ngày; kết hợp với kiểm soát gian truyền bệnh như tránh muỗi đốt, diệt bọ gậy, diệt muỗi trưởng thành, vệ sinh môi trường loại bỏ ổ chứa nước đọng.
· Giai đoạn hết sốt, có sốc do giảm lưu lượng tuần hoàn, trụy mạch (độ III, IV)
- Pháp: Bổ khí, sinh tân
- Phương dược: Sinh mạch tán gia giảm ( Nhân sâm, mạch môn, ngũ vị tử,…) . Sắc uống ngày 1 thang. Nếu bệnh nhân bị trụy mạch cần kết hợp y học hiện đại: Truyền dịch, trợ tim mạch, truyền tiểu cầu, truyền máu…
- Châm cứu: Cứu hoặc ôn châm các huyệt: Quan nguyên, Khí hải, Nội quan, Túc Tam lý.
· Giai đoạn phục hồi
Giai đoạn này bệnh nhân hết sốt, nốt xuất huyết mờ dần, mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, ăn ngủ kém, đại tiện lỏng nát.
- Pháp: Tư âm, bổ khí huyết
- Phương: Có thể dùng các bài thuốc cổ phương gia giảm như: Bổ trung ích khí, Bát trân thang, Thập toàn đại bổ, Quy tỳ thang… tùy vào chứng cụ thể mà lựa chọn và gia giảm cho thích hợp.
- Châm cứu: Châm bổ các huyệt: Thận du, Cách du, Tỳ du, Túc tam lý, Tam âm giao.
Tiến sĩ - Lương Y: Phùng Tuấn Giang
Chủ Tịch Viện nghiên Cứu phát triển y dược cổ truyền Việt Nam