Theo PGS Trần Đắc Phu – nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
Bệnh bạch hầu lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Sữa tươi cũng có thể là phương tiện lây truyền bệnh bạch hầu.
Triệu chứng của bệnh, bệnh nhân có các triệu chứng như sốt, viêm họng, mũi, thanh quản. Họng đỏ, nuốt đau. Da xanh, mệt, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ.
Khi khám bác sĩ có thể thấy có giả mạc. Giả mạc bạch hầu thường trắng ngà hoặc mầu xám dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Cho giả mạc vào cốc nước dù có khuấy mạnh cũng không tan. Còn giả mạc mủ thì sẽ bị hoà tan hoàn toàn trong cốc nước. Vùng niêm mạc xung quanh giả mạc bị xung huyết.
Biến chứng của bệnh bạch hầu đó là làm nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác và/hoặc viêm cơ tim. Tỷ lệ tử vong khoảng 5% - 10%. Các vị trí gây bệnh bạch hầu sẽ có triệu chứng và biến chứng khác nhau.
Có ba vị trí điển hình của bệnh bạch hầu: Thứ nhất bạch hầu mũi trước. Khi bị ở vị trí này bệnh nhân có biểu hiện sổ mũi, những chất mủ mũi nhầy, có thể lẫn cả máu. Người bệnh chỉ có triệu chứng này thì thường nhẹ vì độc tố của vi khuẩn ít xâm nhập vào máu.
Thứ hai, bệnh ở vùng bạch hầu họng và amidan sẽ biểu hiện đau rát cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ, mệt mỏi nhiều. Sau khoảng 2 - 3 ngày, vùng amidan hoặc vùng hầu họng sẽ xuất hiện những đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò, trường hợp nặng bệnh nhân mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nếu bệnh nhân không được phát hiện và điều trị có thể tử vong do độc tố của vi khuẩn ngấm vào máu nhiều, gây nhiễm độc toàn thân.
Thứ ba đây là tể nặng nhất đó là bạch hầu thanh quản. Bệnh nhân thường có diễn biến bệnh tiến triển nhanh nhất đặc biệt là lứa tuổi trẻ em. Người bệnh nhân thường sốt, khàn giọng, ho to và nhiều. Khám có thể thấy hình ảnh nhiều giả mạc tại thanh quản.
Nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời, những giả mạc này có thể gây bít tắc đường thở, khiến bệnh nhân suy hô hấp, nhiễm độc và tê liệt các dây thần kinh sọ não, vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác hoặc gây viêm cơ tim và có nguy cơ tử vong nhanh chóng.
Phòng bệnh tốt nhất theo PGS Phu đó là tiêm vắc xin. Có nhiều loại vắc xin để có phòng ngừa bệnh bạch hầu như vắc xin 3 trong 1, 4 trong 1, 5 trong 1 hay vắc xin 6 trong 1 có phòng ngừa cho 6 loại bệnh truyền nhiễm cho trẻ từ 2 tháng đến dưới 24 tháng tuổi cả trong chương trình tiêm chủng mở rộng và tiêm dịch vụ đều đầy đủ.