Bộ Y tế chỉ cách 'bắt bệnh' béo phì qua vòng bụng

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Bộ Y tế vừa ban hành hướng dẫn mới nhất về chẩn đoán béo phì thông qua các yếu tố gồm chỉ số khối cơ thể, vòng bụng, cân nặng…
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Thứ trưởng Bộ Y tế vừa ký ban hành Hướng dẫn mới nhất về chẩn đoán và điều trị bệnh béo phì vào cuối tuần trước. Trong hướng dẫn này, có 3 cách chẩn đoán béo phì như sau:

Chỉ số khối cơ thể (BMI- Body mass index). Chỉ số này được đo bằng cân nặng chia cho chiều cao (BMI = Cân nặng (kg)/Chiều cao (m2)).

Vòng bụng: Dụng cụ sử dụng thước dây chia vạch do Việt Nam sản xuất đạt tiêu chuẩn của Cục đo lường Việt Nam.

Dựa vào đo vòng bụng, cách đánh giá kết quả như sau: béo phì dạng nam (béo phì phần trên cơ thể, béo phì kiểu bụng, béo phì hình quả táo, béo phì trung tâm) khi vòng bụng ≥ 90 cm ở nam và ≥80 cm ở nữ.

Cách chẩn đoán thứ 3 là phương pháp DEXA hấp thụ năng lượng kép.

Hướng dẫn của Bộ Y tế cũng nêu rõ sự khác nhau giữa béo phì dạng nam và nữ. Cụ thể: Béo phì dạng nam thường có mỡ phân bố nhiều ở bụng, thân, vai, cánh tay, cổ, mặt; Vẻ mặt hồng hào; Cơ vẫn phát triển khác với hội chứng Cushing. Dạng béo phì này thường xảy ra ở người ăn nhiều.

Béo phì dạng nữ là béo phì phần dưới cơ thể, béo phì hình quả lê. Mỡ phân bố chủ yếu ở phần dưới của cơ thể (khung chậu, vùng thắt lưng, mông, đùi); Da xanh; Cơ ít phát triển. Người mắc thường bị suy nhược và thường kèm suy tĩnh mạch, rối loạn kinh nguyệt ở nữ.

Theo Bộ Y tế, béo phì gây ra các vấn đề trầm trọng đến sức khỏe, là thủ phạm gây hơn 200 bệnh khác nhau. Các bệnh lý được cơ quan này liệt kê như: Tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ và nhiều bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư đường tiêu hóa...

Thống kê cho thấy, tại nước ta có gần 20% người thừa cân, béo phì trên cả nước sống ở Hà Nội và TP HCM. Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em tuổi học đường 5 - 19 tuổi tăng từ 8,5% (năm 2010) lên thành 19% (năm 2020), trong đó khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.

Đọc thêm