Quân uỷ Trung ương điều đồng chí Hoàng Trà - Chính uỷ Quân chủng Hải quân - về làm việc bên cạnh Bộ Tổng tham mưu (BTTM), giúp theo dõi tình hình địch trên biển, kiến nghị về nhiệm vụ của Hải quân trong trận tổng giao chiến cuối cùng; yêu cầu BTTM, Bộ Ngoại giao cung cấp tài liệu về các đảo, quần đảo thuộc vùng biển của Việt Nam, đồng thời chỉ thị cho Cục Quân báo nắm tình hình địch ở biển Đông.
Nhãn quan chiến lược
Biển Đông là một vùng biển rộng, có nhiều đảo nhưng nổi lên hai quần đảo lớn là Hoàng Sa ở phía bắc và Trường Sa ở phía nam. Từ thế kỷ XVII, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực hiện chủ quyền một cách liên tục và hoà bình đối với hai quần đảo này, không gặp sự tranh chấp của quốc gia nào.
Nhãn quan chiến lược quân sự của Bộ Thống soái tối cao đã nhìn rõ vấn đề, cần tổ chức giải phóng kịp thời phần đất này. Nếu để chậm, để quân đội nước khác xâm chiếm nơi đây, tình hình sẽ rất phức tạp. Khó khăn lớn nhất của ta lúc này là phải đánh chiếm các đảo với lực lượng hải quân nhỏ bé. Trên mặt trận biển Đông, hành động cũng phải “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Ngày 2/4/1975, tại Tổng Hành dinh, sau khi nghe báo cáo về trận Đà Nẵng, Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị cho đồng chí Lê Trọng Tấn - Tổng tham mưu phó: Ngoài nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh của Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân, tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Vùng này có thể có tàu chiến của Hạm đội 7 và hải quân các nước khác hoạt động. Hải quân quân đội Sài Gòn cũng được trang bị các loại tàu lớn. Do đó nghệ thuật tác chiến phải kiên quyết, táo bạo, đồng thời phải hết sức mưu trí, sáng tạo, bất ngờ.
Các đơn vị có nhiệm vụ sẵn sàng, có thời cơ là đánh được ngay, bảo đảm chắc thắng. Nếu có hiện tượng địch rút, phải tranh thủ đánh chiếm ngay. Nếu tình hình chung địch bị nguy khốn, nhất là ở Sài Gòn, Bộ sẽ thông báo kịp thời. Nếu quân nước ngoài đã chiếm đảo nào thì kiên quyết chiếm lại. Nếu có khó khăn thì xin chỉ thị của Bộ.
Tổng Tư lệnh cũng chỉ thị cho BTTM điều ngay Sở Chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Hải quân vào Đà Nẵng, vừa tiếp quản căn cứ hải quân của địch ở đây, vừa chuẩn bị sẵn sàng phát triển chiến đấu trên mặt biển. Tiếp đó, BTTM chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Hải quân dùng lực lượng hiện có, phối hợp với đặc công của Quân khu 5, tranh thủ thời cơ có lợi thực hiện nhiệm vụ giải phóng Trường Sa, một quần đảo có ý nghĩa chiến lược về chính trị, quân sự và kinh tế, góp phần giải phóng đất nước.
Trước đó ngày 30/3, Quân uỷ Trung ương đã điện cho đồng chí Võ Chí Công và đồng chí Chu Huy Mân: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ giao cho Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo, thực hiện gấp rút nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo hiện do quân đội Sài Gòn chiếm đóng thuộc quần đảo Nam Sa. Trong việc này, đồng chí Nguyễn Bá Phát, phái viên của BTTM và các cán bộ Hải quân cùng đi sẽ do Khu uỷ và Quân khu uỷ chỉ đạo để thực hiện kế hoạch”.
Chiều ngày 4/4, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương điện tiếp cho Khu uỷ, Quân khu uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân: “Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng”.
Bên cột mốc ở đảo Trường Sa sau ngày giải phóng |
Mệnh lệnh được thi hành tức khắc. Quân khu 5 cùng Bộ Tư lệnh Hải quân triển khai kế hoạch tác chiến. Bộ Tư lệnh Hải quân sẽ sử dụng tàu vận tải của Đoàn 125 chở Đội 1 (Đoàn đặc công 126) và một bộ phận hoả lực của Tiểu đoàn 471 đặc công Quân khu 5. Chủ trương của ta là giải phóng Song Tử Tây trước, vận dụng phương châm bí mật, bất ngờ tấn công, lợi dụng yếu tố thuỷ văn, đổ bộ lên đảo trong thời gian từ 0 giờ đến 2 giờ sáng.
Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân chỉ huy chung. Lực lượng gồm Phân đội 3: tàu 673, 674, 675 (Đoàn 125) làm nhiệm vụ chở quân và tham gia chiến đấu, Tham mưu trưởng Đoàn 125 Dương Tấn Kịch chỉ huy. Đơn vị trực tiếp giải phóng đảo là Đội 1, Đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế. Trung tá Mai Năng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 126 chỉ huy trưởng và đồng chí Dương Tấn Kịch Tham mưu trưởng Đoàn 125 chỉ huy phó lực lượng tham gia giải phóng đảo.
Ngày 9/4/1975, Cục Quân báo phát hiện địch rút quân khỏi các đảo ở biển Nam Hải. Quân uỷ Trung ương điện “tối khẩn” cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, đồng điện đồng chí Hoàng Hữu Thái - Phó Tư lệnh Hải quân - ở Đà Nẵng: “Có tin quân ngụy chuẩn bị rút khỏi đảo Nam Sa, các đồng chí cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm có thể quân nước ngoài chiếm trước vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”.
Cùng ngày, BTTM phát lệnh giải phóng Trường Sa, nhưng trước tiên tiến công Song Tử Tây, một đảo có vị trí quan trọng, nằm trong quần đảo Trường Sa, cách cảng Cam Ranh khoảng 305 hải lí. Từ Song Tử Tây, có thể quan sát phát hiện sớm, từ xa tàu thuyền, máy bay từ phía bắc xuống phía nam và từ đông sang tây, kịp thời thông báo để xử lí các tình huống. Khoảng cách giữa đảo Song Tử Tây và các đảo trong quần đảo không xa, dễ tạo được mối liên kết trong cụm đảo và tuyến đảo, làm lá chắn vững chắc từ xa bảo vệ sườn phía đông của đất nước.
Ngày 10/4, Bộ Tư lệnh Hải quân cấp tốc điều ba tàu vận tải 673, 674 và 675 từ Hải Phòng vào Đà Nẵng, đồng thời Đội 1 bàn giao nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Sơn Trà cho Quân Khu 5 rồi đến tập kết tại quân cảng Đà Nẵng. 4 giờ ngày 11/4, Đội 1 và bộ phận hoả lực của Tiểu đoàn 471 xuống tàu vận tải Đoàn 125 hành quân ra đảo.
Những con tàu không số vốn từng quen với đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, nhiều lần qua lại khu vực Trường Sa nên đã nhận dạng, phân biệt các đảo và cũng có kinh nghiệm tránh đá ngầm. Đội 1 Đoàn 126 đặc công là đơn vị có bề dày thành tích với cách đánh bí mật, bất ngờ đã đánh chìm nhiều tàu địch ở chiến trường Cửa Việt.
Giải phóng Trường Sa
Ngày 13/4, Quân khu 5 điện về BTTM báo cáo kế hoạch đánh chiếm các đảo. Tổng Tư lệnh điện ngay cho quân khu qua đồng chí Chu Huy Mân: “Các anh đã tích cực tổ chức thực hiện quyết định của Quân uỷ Trung ương về việc đánh chiếm các đảo, ý kiến của Tổng Tư lệnh là: việc đánh chiếm các đảo cần làm đúng thời cơ. Nếu có thời cơ cụ thể mà không kịp đánh chiếm thì các nước ngoài có thể chiếm trước. Nếu địch chưa rút mà ta chiếm trước thì tình hình có thể trở nên phức tạp, vì lực lượng ta có hạn và việc tăng viện gặp khó khăn.
Do đó thời cơ cụ thể là: nếu địch đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay; nếu quân nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại; nếu địch mới có dấu hiệu rút hoặc bắt đầu rút thì theo dõi, kịp thời đánh chiếm khi địch rút đại bộ phận. Khi tình hình chung của địch nguy khốn, nhất là tình hình địch ở trọng điểm thì đánh chiếm ngay. Hai thời cơ cụ thể trên do anh em theo dõi quyết định. Thời cơ cụ thể thứ ba, Tổng Tư lệnh sẽ kịp thời thông báo khi xuất hiện. Thời cơ đánh chiếm là như vậy, nhưng cách đánh chiếm thì sao, trong tình hình vũ khí, phương tiện của ta còn kém hơn địch cả về số lượng và trình độ hiện đại”.
Ngày hôm sau, một nguồn đáng tin cậy báo về: Có hiện tượng quân địch chuẩn bị rút khỏi quần đảo Trường Sa. Sau khi kiểm tra lại nguồn tin, Tổng Tư lệnh điện gấp cho Quân khu 5: “Thời cơ đánh các đảo thuộc khu vực Nam Sa lúc này rất thuận lợi. Chỉ đánh các đảo quân nguỵ miền Nam chiếm đóng. Các anh ra lệnh đánh chiếm ngay. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ và thường xuyên báo cáo về Bộ”.
Nhận chỉ thị, mệnh lệnh của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, đồng chí Hoàng Hữu Thái ra lệnh cho các tàu hải quân ngụy trang giả dạng tàu đánh cá áp sát mục tiêu và 4 giờ ngày 13/4, đoàn đổ bộ cách đảo Song Tử Tây 5 hải lí. Ban Chỉ huy cho tàu lùi ra xa thả trôi để bộ đội hồi phục sức khỏe và xác định phương án tác chiến.
Bằng phương tiện nhỏ và ít, đối mặt với tàu chiến của địch và đại dương mênh mông, quân ta đã đánh theo kiểu của mình; bí mật tiếp cận, nhanh chóng đổ bộ, bất ngờ chiếm mục tiêu. 19 giờ, tàu 673 chở Phân đội 1 tiếp cận đảo, hai tàu còn lại vòng ra án ngữ phía bắc và nam đảo sẵn sàng chi viện khi cần thiết; 1 giờ 15 phút sáng 14/4, bộ đội dùng xuồng cao su bí mật đổ bộ lên đảo.
Đội hình đổ bộ chia làm 3 mũi: mũi 1 gồm 4 tổ đặc công trang bị 1 DKZ 82 và B40, B41 đánh từ hướng bắc đảo; mũi 2 gồm 3 tổ đặc công trang bị B40, B41 đánh từ hướng đông bắc đảo; mũi 3 gồm 2 tổ đặc công đánh từ hướng đông nam do Nguyễn Ngọc Quế và Chính trị viên phó Vũ Ngọc Hồi trực tiếp chỉ huy. Bằng cách đánh áp sát, táo bạo, bất ngờ, sau 30 phút chiến đấu, ta làm chủ trận địa, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, giải phóng đảo Song Tử Tây, kéo lá cờ Tổ quốc lên đỉnh cột cờ trên đảo lúc 5 giờ ngày 14/4/1975.
Tiếp đó ngày 25/4, đặc công ta tiến công chiếm đảo Sơn Ca; ngày 27/4 giải phóng đảo Nam Yết và đảo Sinh Tồn; ngày 28/4 giải phóng đảo Trường Sa, đảo An Bang, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong vòng nửa tháng với những cố gắng lớn nhất. Ngày 28/4, bộ đội ta trên các đảo, trên các tàu chiến nhận được điện khen: “Quân uỷ Trung ương rất phấn khởi nhận được tin quân ta đã chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược”.
Cùng với thắng lợi của các mặt trận trên đất liền, giải phóng quần đảo Trường Sa, phần đất xa nhất của Tổ quốc, một vùng biển rộng lớn giàu tài nguyên với những đảo và quần đảo có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, góp phần vào thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước…