Vốn tật nguyền, cuộc đời anh Phạm Văn Xuân, chị Trương Thị Thà tưởng chừng không tránh khỏi cảnh “chăn đơn, gối chiếc”. Nhưng, duyên phận lại đưa họ đến với nhau. Tình yêu ấy bắt đầu từ những cánh thư...
Vợ chồng anh Xuân, chị Thà cùng cô con gái lớn |
Phạm Văn Xuân sinh năm 1971. Tuổi thơ của anh đói rách như bao đứa trẻ quanh núi Gò Dài (xã Xuân Quang, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ), dưới tán những bụi tre pheo rậm rạp, ngay mép sông Hồng. Bao nhiêu năm qua, núi Gò Dài vẫn xác xơ, vẫn nóng bỏng gắt gay dưới cái nắng mỗi độ hè về.
Cái thứ đất toàn sỏi đá đỏ thẫm như gan gà, đến bạch đàn, là loài ưa loại đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi” cũng xơ xác, còi cọc. Trên cái mảnh đất ấy, cha mẹ anh sinh tới 9 người con, thì không đói khát mới lạ.
Cái đói, cái khổ dìm từng ấy con người không ngoi ngóc lên nổi. Hai bà chị của Xuân bị lừa bán sang Trung Quốc, biệt tăm hơi, không biết còn sống hay đã chết. Mấy người chị lấy chồng xã bên cạnh cũng nghèo rớt nghèo rãi. Cô em gái lấy chồng mười mấy năm nay mà không sinh được con, chịu cảnh bị đánh đập, ruồng bỏ. Một bà chị ở trong nhà, điên điên dở dở, lên cơn chửi ráo cả bố lẫn mẹ. Ông anh ở cạnh thì đẻ 4 đứa con, chưa ăn bữa trưa đã lo bữa tối. Mẹ anh mắc bệnh viêm phổi mãn tính, sau khi tiêu tốn không còn đồng nào thì về trời. Bố anh 80 tuổi, nay ốm, mai đau, cũng cứ nằm bẹp vậy, chả có tiền đi viện.
Dù nghèo khổ, song Xuân rất ham học, nuôi khát vọng trở thành thầy giáo dạy chữ cho trẻ em nghèo. Cơm sắn độn khoai, song nhờ chịu khó lao động, luyện rèn sức khỏe nên anh vẫn to khỏe, đẹp đẽ. Bất hạnh xảy đến với Xuân khi anh vừa tròn 16 tuổi. Trên đường đi học về, Xuân gặp mưa, bị cảm lạnh, đột quỵ. Đường xa, nhà nghèo, không có tiền đưa con đi viện, ông bà Thoa chỉ bốc thuốc Nam cho con trai. Nhưng bệnh Xuân ngày một nặng, đôi chân sưng to như chân voi, rồi héo dần, tóp lại, teo đi. Xương sống ở lưng thì cong lại, gồ lên, khiến Xuân gù rạp như ông cụ, đi lại bằng hai tay nghênh ngang như con cua 8 cẳng 2 càng.
Từ những cánh thư...
Một chàng trai khỏe mạnh, ham học bỗng chốc trở thành kẻ tật nguyền, bao nhiêu mơ ước, hoài bão của Xuân tưởng chừng như bị cơn bạo bệnh cuốn phăng hết. Anh ngồi đếm thời gian trong căn nhà rách nát, sống khép kín, thu mình và chỉ còn biết làm bạn với chiếc đài cũ rích, tiếng kêu cứ phát ra “rọt rẹt”.
Ngày Xuân nằm liệt nghe đài, cứ đến chương trình kết bạn bốn phương, anh lại ghi chép địa chỉ các cô gái, rồi đêm đêm chong đèn viết thư làm quen. Thư đi, thư lại, Xuân có được hàng tá người bạn gái thân thiết, chia sẻ vui buồn. Rồi Xuân tập tễnh tập đi, có lẽ cũng bởi những cánh thư kết bạn đã đem lại động lực, niềm vui sống cho chàng trai tật nguyền nơi xó núi này. Trong số những cô gái quen biết qua thư, có một người con gái đã làm trái tim Xuân thao thức. Sau 5 năm, với cả ngàn cánh thư qua lại với bao tâm sự, sẻ chia được gửi gắm, và anh chẳng hiểu, đã yêu cô tự lúc nào...
Dù “tình trong như đã” nhưng tủi phận tật nguyền, chưa bao giờ anh dám thổ lộ lời yêu với cô gái, càng không dám trao đổi ảnh với người con gái có khuôn mặt xinh xắn và nụ cười thật tươi. “Thú thực, lúc đó mình tật nguyền, xấu xí, lại nghĩ cô ấy là người bình thường, nên đâu có dám gửi ảnh cho cô ấy. Với lại, nhà nghèo, nằm một chỗ ở chân núi thế này, có đi chụp ảnh bao giờ đâu mà có ảnh gửi”, Xuân cười bẽn lẽn. Nghĩ mình không xứng, rồi lại sợ cô gái biết hoàn cảnh sẽ coi thường nên anh đành chôn chặt tình cảm, mặc nàng giận, cho rằng anh lừa dối mình. Những cánh thư cũng ngưng bặt từ đó.
... nên duyên vợ chồng
Không chịu được cảnh mãi là kẻ “ăn bám”, Xuân quyết chí sẽ tự mình bước ra cuộc sống, hòa nhập với xã hội để chứng mình mình tàn mà không phế. Anh bảo, chính những câu chuyện về những con người bất hạnh hơn cả anh đã vượt qua số phận bằng nghị lực phi thường đã thúc đẩy quyết tâm của anh.
Lần ấy, thấy trên đài có chương trình nói về lớp học may cho người tật nguyền ở Sơn Tây, chàng trai Phạm Văn Xuân đã trốn gia đình, nhờ đứa cháu chở ra Tứ Mỹ, rồi bắt xe xuống Sơn Tây nộp hồ sơ xin nhập học. Một điều kỳ diệu mà Xuân chưa bao giờ ngờ tới, sau quãng thời gian đằng đẵng 2 năm trời bặt tin, người con gái 5 năm anh quen qua thư cùng lúc cũng đăng ký lớp học may như anh. Nhìn cái tên quen thuộc trên bảng danh sách anh đã lặng người đi, tim đập thình thịch, niềm vui chộn rộn: Trương Thị Thà, sinh năm 1979, quê quán xã Văn Bình, Thường Tín, Hà Tây cũ.
Điều đặc biệt là Thà cũng bị tật nguyền, một tay co quắp, chân đi thấp thểnh. Lúc này Xuân mới nhận ra, tại sao một người con gái cách xa anh hàng trăm cây số lại có thể hiểu và sẻ chia cho anh nhiều đến thế. Bởi họ, hai tâm hồn đồng điệu, hai con người không may mắn đều mang số phận giống nhau. Mấy tháng học cùng, Xuân không nói gì, chỉ lặng lẽ quan sát Thà. Còn Thà thì vô ý hơn, không để ý, nên không biết người ngồi cùng lớp mình chính là người mà cô đã thầm yêu năm nào.
Ngày lễ Giáng sinh năm ấy, Xuân đưa Thà đi chơi. Trăng sáng vằng vặc, ngồi bên nhau, Xuân hỏi: “Em có biết, người viết thư cho em 7 năm trước đang ở gần đây không?”. Thà lắc đầu: “Không biết có tin được không nữa”. Rồi Xuân mạnh dạn nắm chặt lấy tay Thà: “Đây có lẽ là định mệnh ông trời sắp đặt. Nếu là ông trời sắp xếp cho anh gặp em, thì em có đồng ý lấy anh không?”. Trong tiếng thổn thức của trái tim, Thà run rẩy: “Nếu là ông trời sắp đặt thì em đồng ý”.
Chỉ tháng sau, bất chấp sự ngăn cản quyết liệt, thậm chí “từ” mặt con của gia đình nhà gái, hai người đã đến với nhau. Chỉ vài mâm cơm dưới chân núi Gò Dài mà họ nên vợ thành chồng. Cái tin anh chàng Xuân vừa nghèo rớt mùng tơi, vừa tật nguyền lấy được vợ đã làm rộn cả xóm núi, người ta kéo nhau đến xem đông nghịt. Người tốt thì tấm tắc chúc phúc cho vợ chồng trẻ, kẻ thì chép miệng: “Tật nguyền như thế, lấy nhau về có mà hít khí trời để ăn”. “Cả em và vợ đều biết, hoàn cảnh bọn em thế này, về sống dưới một mái nhà thế nào cũng khổ. Nhưng, lòng dạ bọn em lỡ thương nhau mất rồi”, Xuân tâm sự.
Hạnh phúc và tiếng cười
Trời run rủi cho họ nên duyên nhưng ông trời vẫn thử thách đôi vợ chồng trẻ. Sau đám cưới 1 năm, tốt nghiệp lớp học may, hai vợ chồng lang bạt làm thuê ở rất nhiều trung tâm may nhân đạo để kiếm sống, song vẫn đói ăn. Trong ngôi nhà xiêu vẹo, những đêm mưa lạnh, hai mảnh đời tật nguyền ôm nhau nép sát vào góc nhà duy nhất không bị dột, cùng chờ bình minh.
Tưởng chừng hạnh phúc gia đình của họ “không chóng thì chày” cũng đến ngày sứt mẻ. Nhưng, đôi vợ chồng trẻ vẫn “cơm lành, canh ngọt”. Càng khó khăn, anh chị càng thấm thía giá trị của hai chữ: Hạnh phúc. Đôi vợ chồng khuyết tật luôn ý thức giữ gìn ngọn lửa gia đình. Chị thường động viên anh: “Vợ chồng mình đã đến với nhau bằng tình yêu chân thành, sự đồng cảm, mình đã bất chấp sự khuyên can của mọi người. Vậy chúng mình hãy vì tình yêu ấy mà sống cho tốt. Mình hãy chứng tỏ cho mọi người thấy rằng: “Những người khuyết tật và bất hạnh không phải không có phần trong những ngọt ngào và hạnh phúc của tình yêu””.
Thương cháu gái vất vả long đong, năm 2006, bà ngoại của Thà đã cho 30m2 đất ở huyện Thường Tín. Hội Phụ nữ xã cùng các ban ngành đóng góp xây cho vợ chồng Xuân và Thà căn nhà tình thương nho nhỏ. Thà mừng rỡ: “Đây là một phép màu chứ vợ chồng em biết đến khi nào mới có được cái nhà tử tế. Đồng hồ treo tường, nồi cơm điện họ cũng cho. Lúc về nhà mới vợ chồng em chỉ có mỗi chiếc thùng gạo, còn không có gạo mà đựng”. Từ căn nhà tình thương ấy, hai đứa con xinh xắn liên tiếp ra đời. Ngày sinh con khỏe mạnh, chị đã khóc thật nhiều vì vui sướng, anh xong công việc lại tất tả chạy về để được sờ con cho thỏa.
Tích cóp được chút tiền, mua được chiếc xe máy Trung Quốc với giá 5 triệu đồng, anh cải tạo thành xe 3 bánh và hai vợ chồng quyết định tự lực kiếm sống. Chỉ chiếc xe “đặc chủng” 3 bánh ở ngoài sân, Thà đùa: “Bạn của nhà em đó”. Hàng ngày, Xuân chạy xe 3 bánh vào chợ Đồng Xuân lấy hàng, chở về chợ Vồi (Thường Tín, Hà Nội) để vợ bán “hàng đống” ở vỉa hè. Chịu khó dãi dầu mưa nắng, hai vợ chồng cũng tự kiếm sống nuôi thân và nuôi hai đứa con. Và cứ đều đặn mỗi tháng một lần, họ lại cùng chiếc xe ấy vượt hơn trăm cây số về thăm gia đình nơi xó núi Gò Dài.
Suốt buổi trò chuyện tôi chỉ thấy tiếng họ cười, chẳng một câu trách cứ số phận và than vãn cuộc đời. Nhìn “nàng công chúa” sáu tuổi ngồi xếp quần áo líu lo với mẹ, còn nàng út chưa đầy bốn tuổi nũng nịu trong lòng cha, cười tinh nghịch theo từng ngón tay cha “chạy” trên mặt, tôi cảm nhận họ đang thật sự hạnh phúc. Tôi nhận ra một niềm tin mãnh liệt của đôi vợ chồng trẻ: Rằng hạnh phúc luôn đến với những người biết sống yêu thương và biết khao khát.
Xuân “hài hước” nói về cuộc sống ngày xưa của mình: “Nếu không là người khuyết tật, tôi sẽ không gặp vợ tôi bây giờ. Số phận không cho ai hết cái gì, cũng không lấy đi hết của ai cái gì. Tôi thấy mình là người may mắn trong tình duyên”.
Chúc anh chị mãi mạnh khỏe, gìn giữ cho mình tiếng cười, để thắp lên cho đời nhiều tiếng cười.