Có nên đẩy mạnh tư nhân hóa dịch vụ công tại Việt Nam?

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Từ sau đổi mới đến nay, chủ trương khuyến khích khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công đã góp phần giảm ngân sách, nâng cao chất lượng dịch vụ và khơi dậy tiềm năng cạnh tranh. Dù vậy, việc phát triển còn gặp nhiều khó khăn do hệ thống chính sách tài chính (thuế, phí, tín dụng, quản lý giá, đất đai, bảo hiểm xã hội…) thiếu đồng bộ, chưa đủ khuyến khích kinh doanh nghiệp tư nhân tham gia. Để người dân tiếp cận tối đa những tiện ích công cộng, câu hỏi đặt ra, liệu có nên đẩy mạnh tư nhân hóa dịch vụ công tại Việt Nam.
Dịch vụ công và quản lý cung ứng dịch vụ công. (Ảnh nguồn Tạp chí Quản lý Nhà nước)
Dịch vụ công và quản lý cung ứng dịch vụ công. (Ảnh nguồn Tạp chí Quản lý Nhà nước)

Thực trạng tư nhân hóa dịch vụ công

Dịch vụ công, bao gồm các lĩnh vực thiết yếu như y tế, giáo dục, giao thông, cấp nước..., đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng cuộc sống, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và duy trì ổn định xã hội. Tư nhân hóa dịch vụ công tại Việt Nam đã trở thành một trong những xu hướng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước trong những năm gần đây. Quá trình này không chỉ phản ánh sự chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường mà còn thể hiện nỗ lực của chính phủ trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.

Quá trình này được triển khai rộng rãi trên nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có những đặc thù riêng, nhưng chung quy lại, mục tiêu chính của tư nhân hóa là tối ưu hóa nguồn lực, tăng cường sự cạnh tranh, thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) năm 2022, tỷ lệ tham gia đầu tư tư nhân trong các dự án hạ tầng giao thông tại Việt Nam đã tăng từ 20% vào năm 2015 lên khoảng 35% vào năm 2022. Điều này phản ánh sự tin tưởng của nhà đầu tư vào tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam.

Trong lĩnh vực giao thông vận tải, tư nhân hóa đã được thực hiện thông qua mô hình đối tác công-tư, một phương thức hợp tác giữa chính phủ và các doanh nghiệp tư nhân nhằm xây dựng, vận hành và quản lý các dự án hạ tầng. Các dự án đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường sắt cao tốc Bắc Nam và Sân bay quốc tế Long Thành là những ví dụ điển hình cho sự tham gia của khu vực tư nhân trong phát triển hạ tầng giao thông. Những dự án này không chỉ cải thiện khả năng kết nối giữa các vùng miền mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, tạo ra hàng ngàn việc làm và thu hút đầu tư nước ngoài.

Trong lĩnh vực y tế, sự tư nhân hóa đã mang lại những thay đổi đáng kể trong cách thức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các bệnh viện tư nhân như FV Hospital, Vinmec International Hospital, và Family Medical Practice đã phát triển mạnh mẽ, cung cấp các dịch vụ y tế chất lượng cao với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y bác sĩ chuyên nghiệp. Sự tham gia của khu vực tư nhân trong y tế không chỉ giúp giảm áp lực cho hệ thống y tế công lập mà còn tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn dịch vụ cho người dân.

Giáo dục là một lĩnh vực khác cũng chứng kiến sự gia tăng đáng kể của tư nhân hóa tại Việt Nam. Các trường học tư thục và các trung tâm giáo dục tư nhân như RMIT University Vietnam, British University Vietnam (BUV), và các trường mầm non tư thục đã mở rộng sự lựa chọn cho phụ huynh và học sinh, cung cấp các chương trình giáo dục đa dạng và linh hoạt. Những cơ sở giáo dục tư nhân này thường được trang bị cơ sở vật chất hiện đại, chương trình giảng dạy tiên tiến và môi trường học tập chuyên nghiệp, từ đó thu hút đông đảo học sinh trong và ngoài nước.

Trong lĩnh vực cung cấp nước và các dịch vụ tiện ích, tư nhân hóa cũng đã được áp dụng thông qua các hợp đồng thuê bao và hợp tác công-tư. Việc chuyển giao cung cấp nước sạch từ chính phủ sang các công ty tư nhân không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực mà còn đảm bảo việc cung cấp nước đạt tiêu chuẩn chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dân số. Các công ty tư nhân như Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power) và các doanh nghiệp nước tư nhân đã tham gia vào việc cung cấp điện, gas và các dịch vụ tiện ích khác, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường và khuyến khích các nhà cung cấp cải tiến dịch vụ để thu hút khách hàng.

Ngoài các lĩnh vực trên, tư nhân hóa dịch vụ công tại Việt Nam còn được triển khai trong các lĩnh vực hạ tầng cơ sở và công nghệ thông tin. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, như hệ thống giao thông công cộng, khu công nghệ cao và các khu đô thị mới, đều nhận được sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân thông qua các hợp đồng PPP. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sự hợp tác công-tư đã giúp phát triển các dịch vụ công trực tuyến, nâng cao hiệu quả quản lý hành chính và cung cấp các dịch vụ số tiện ích cho người dân. Việc áp dụng công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, big data và Internet of Things (IoT) trong quản lý dịch vụ công đã tạo ra những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ này.

Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách và khung pháp lý hỗ trợ quá trình tư nhân hóa dịch vụ công. Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, và các nghị định liên quan đến hợp tác công-tư đã được sửa đổi và hoàn thiện nhằm đảm bảo minh bạch, công bằng trong các dự án tư nhân hóa. Ngoài ra, các chương trình ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào quá trình này cũng được triển khai. Những chính sách này không chỉ khuyến khích đầu tư mà còn tạo ra môi trường kinh doanh ổn định, tin cậy, giúp các doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư và phát triển các dịch vụ công chất lượng. Một trong những lợi ích chính là cải thiện chất lượng dịch vụ. Sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân thường mang lại sự đổi mới, áp dụng công nghệ tiên tiến và quản lý chuyên nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân.

'Bài toán' về những thách thức chưa có lời giải

Quá trình khuyến khích tư nhân hóa dịch vụ công tại nước ta tồn tại nhiều thách thức đáng kể. Một trong những nguyên nhân chính là khung pháp lý chưa hoàn thiện. Mặc dù chính phủ đã ban hành một số Nghị định như Nghị định số 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư theo hình thức PPP, gần đây là Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, nhưng những quy định này vẫn còn thiếu chi tiết và rõ ràng, tạo điều kiện cho sự lách luật trong quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc quản lý và giám sát các dự án tư nhân hóa, khi doanh nghiệp tư nhân có thể lợi dụng khoảng trống pháp lý để thực hiện các hành vi không minh bạch hoặc không tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng.

Không chỉ vậy, năng lực quản lý yếu kém và thiếu minh bạch trong giám sát thi công cũng góp phần tạo ra rủi ro, khi nhiều cơ quan chức năng tại Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm và trình độ chuyên môn để quản lý hiệu quả các dự án tư nhân hóa. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong quản lý dự án, đánh giá hiệu quả và giám sát chất lượng dịch vụ dẫn đến khả năng phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề thấp, làm giảm chất lượng dịch vụ và mất lòng tin của người dân vào quá trình tư nhân hóa.

Ngoài ra, bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ là một vấn nạn phát sinh từ động lực lợi nhuận của khu vực tư nhân, khi các doanh nghiệp thường tập trung vào các khu vực có thu nhập cao hoặc nhu cầu lớn nhất nhằm tối đa hóa lợi nhuận, bỏ qua các khu vực nông thôn hoặc thu nhập thấp, dẫn đến gia tăng khoảng cách xã hội và giảm tính bao trùm của dịch vụ công. Sự thiếu các cơ chế đảm bảo tiếp cận cho mọi tầng lớp xã hội càng làm trầm trọng thêm tình trạng này, khi không có chính sách và quy định rõ ràng để dịch vụ tư nhân hóa phục vụ toàn bộ người dân, đặc biệt là nhóm thu nhập thấp. Cuối cùng, sự phụ thuộc quá mức vào khu vực tư nhân đặt ra nhiều thách thức, khi quá nhiều dịch vụ công được chuyển giao sang tư nhân khiến chính phủ giảm bớt đầu tư vào các dịch vụ cốt lõi, dẫn đến mất cân bằng trong phân bổ nguồn lực và giảm khả năng kiểm soát, điều tiết các dịch vụ quan trọng.

Khu vực tư nhân cũng thường bị ảnh hưởng mạnh bởi biến động kinh tế và thị trường, trong thời kỳ khủng hoảng có thể cắt giảm đầu tư hoặc giảm chất lượng dịch vụ để bảo toàn lợi nhuận, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và tính ổn định của dịch vụ công. Sự mất kiểm soát trong định hướng và chiến lược phát triển khi phụ thuộc quá nhiều vào tư nhân cũng là vấn đề nghiêm trọng, khi các doanh nghiệp tư nhân thường tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn thay vì mục tiêu dài hạn như phát triển bền vững và phúc lợi xã hội mà chính phủ cần hướng tới. Nếu muốn tư nhân hóa thành công, theo nghĩa nâng cao hiệu quả hoặc hiệu suất trong sản xuất hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, phải đáp ứng một số điều kiện nhất định.

Đầu tiên, chính phủ cần làm hậu phương vững chắc cho khu vực tư nhân trong cung ứng dịch vụ công. Trong quá khứ, tư nhân hóa đã hoạt động hiệu quả khi một chính phủ quản trị được rủi ro thoái vốn, thâm hụt ngân sách, hoặc khi một chính phủ mới tuyên bố sẽ cải cách các chính sách của chế độ cũ, như Chile và Vương quốc Anh.

Thứ hai, các thể chế thay thế không được kìm hãm sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Trong bối cảnh này hệ thống quản lý của Việt Nam cần được xem xét và cải cách thì việc quản lý quá mức đối với ngành công nghiệp sẽ làm giảm sự phát triển của tư nhân. Cụ thể là trong việc quản lý quá mức đối với việc sử dụng đất đô thị và xây dựng công trình sẽ làm chậm quá trình phát triển đô thị; và việc đặt ra mức trần quá thấp đối với giá các sản phẩm và tiện ích công chẳng hạn như vận tải bằng giao thông công cộng, sẽ làm tăng cầu và làm giảm động lực sản xuất.

Thứ ba, quyền tự do tham gia cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Những dịch vụ đòi hỏi nhiều thủ tục như hành chính công, quyền tự do tham gia rất khó đạt được nhưng một số dịch vụ khác như thu gom rác thải hoặc dịch vụ y tế, người được lợi sẽ là nhân dân bởi các sản phẩm được phát triển thông qua sự cạnh tranh hơn là một cơ quan độc quyền thị trường.

Thứ tư, các dịch vụ công do khu vực tư nhân cung cấp phải mục tiêu cụ thể hoặc có kết quả có thể đo lường được. Ví dụ, có thể đo lường được các dịch vụ liên quan đến cơ sở hạ tầng, nhưng hầu hết các dịch vụ giáo dục và an ninh xã hội rất khó để định lượng, mặc dù có thể đo lường được giá trị đầu vào của chúng.

Thứ năm, tính công bằng là một yếu tố quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ công. Nhìn chung, lợi ích của tư nhân hóa có thể thu về cho chủ sở hữu vốn cung cấp dịch vụ; cho người tiêu dùng, người nhận được dịch vụ hiệu quả hơn; và cho công chúng nói chung, thông qua việc giảm thâm hụt của khu vực công, và do đó giảm thuế hoặc tỷ lệ lạm phát, hoặc cả hai. Tư nhân hóa sẽ phản tác dụng nếu khả năng chi trả của công chúng, được xác định bởi phân phối thu nhập hiện hành, trở thành kim chỉ nam duy nhất cho việc cung cấp các dịch vụ.

Tóm lại, tư nhân hóa dịch vụ công là một hướng đi đầy tiềm năng nhằm nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ, tối ưu hóa nguồn lực và giảm tải gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Việc quyết định nên hay không nên đẩy mạnh tư nhân hóa không chỉ dựa trên những lợi ích kinh tế mà còn phải xem xét đến các yếu tố xã hội, chính trị và văn hóa đặc thù của đất nước.

Đọc thêm