“Cuộc chiến” chống hạn mặn lịch sử tại Đồng bằng sông Cửu Long: Sự chủ động đã giúp đời sống xã hội không xáo trộn quá lớn

(PLVN) - Hạn mặn 2019-2020 tại Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là hạn mặn lịch sử, lớn nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp, “đời sống xã hội đã không xáo trộn quá lớn”. Thành công trên đến từ những nguyên nhân nào?
Tại Bến Tre, một số hộ phải chặt bỏ một số gốc chôm chôm do ảnh hưởng hạn mặn (Hình: nongnghiep.vn).
Tại Bến Tre, một số hộ phải chặt bỏ một số gốc chôm chôm do ảnh hưởng hạn mặn (Hình: nongnghiep.vn).

Xin ông cho biết ảnh hưởng của hạn mặn thời gian qua đến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)?

- Tôi đánh giá hạn mặn 2019-2020 là hạn mặn lịch sử, lớn nhất từ trước đến nay. Theo số liệu quan trắc cho thấy hạn mặn đến sớm và vào rất sâu. Ví dụ như Bến Tre đến thời điểm này toàn bộ sông Hàm Luông vẫn bị mặn, chưa bao giờ như vậy.

Bình thường thì khoảng giữa tháng 4 là đã hết hạn mặn nhưng theo dự báo năm nay phải hết tháng 5 mới có khả năng bắt đầu có mưa từ thượng nguồn và mưa nội địa thì mới có thể giảm hạn mặn này.

Đến thời điểm này, chúng tôi tổng hợp diện tích lúa bị giảm năng suất từ 30-70% khoảng gần 60.000ha, trong số đó có một số bị mất 100%. Cây ăn trái đến thời điểm này có 1,7ha cây ở Chợ Lách - Bến Tre bị ảnh hưởng nhưng địa phương đã hướng dẫn bà con chuyển sang cây trồng khác.

Về nước sạch, có khoảng 96.000 hộ dân thiếu nước và có các giải pháp ngay từ đầu, nên dù bị ảnh hưởng nhưng không hộ dân nào không có nước sạch để sử dụng. Sản xuất kinh doanh khác không bị ảnh hưởng. Bà con đã rất chủ động các biện pháp ứng phó và chính sự chủ động của người dân đã giúp đời sống xã hội không xáo trộn quá lớn.

Với những diễn biến này, việc vào cuộc để phòng chống hạn, mặn được thực hiện như thế nào, thưa ông?

- Thực tế chúng ta hoàn toàn chủ động, đã dự báo rất đúng và rất sớm. Ngay từ tháng 9/2019, chúng ta đã bắt đầu triển khai các hoạt động phòng, chống hạn mặn. Chính vì chúng ta dự báo sớm và dự báo đúng, có các giải pháp chủ động, đến thời điểm này thiệt hại đã giảm thiểu mức tốt nhất.

Thực tế hiện nay biến đổi khí hậu và tính dị thường của thời tiết càng ngày càng khó dự báo. Vì vậy, chúng ta không chủ động thì chắc chắn sẽ không thể ứng phó. 

Qua quá trình ứng phó hạn, mặn cho thấy, chúng ta phải kết hợp các giải pháp, kể cả giải pháp công trình, phi công trình, cả ngắn và dài hạn.  

Ông có thể nói rõ hơn về các giải pháp công trình và phi công trình hiện nay?

- Nhờ áp dụng các biện pháp công trình, đặc biệt nhiều công trình được đưa vào hoạt động đúng đợt hạn mặn nên giảm thiểu rất lớn những vùng ảnh hưởng. Các công trình này đã làm tăng khả năng điều tiết mặn - ngọt và đã điều tiết cho khoảng hơn 300.000ha lúa. Nếu không có các công trình này thì có thể hàng trăm ha lúa sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng.

Các công trình đầu tư dài hạn thì phải đảm bảo được tái cơ cấu và đảm bảo được đúng mục tiêu là nước mặn, nước lợ cũng là nguồn tài nguyên chứ không chỉ nước ngọt là tài nguyên. 

Về giải pháp phi công trình, như chúng tôi đã nói là sự chủ động của người dân rất quan trọng. Nếu chủ động có dự báo cho người dân cũng sẽ giảm thiểu thiệt hại.

Chúng tôi thấy rằng những giải pháp ngắn hạn, ví dụ như các tỉnh để trữ nước ngọt đã đắp đập tạm, cũng rất tốt. Điển hình như Kiên Giang có 197 đập tạm để sản xuất và sinh hoạt nên cơ bản không có hộ dân bị ảnh hưởng do thiếu nước ngọt.

Còn dài hạn, chúng ta phải tính toán để bố trí cân bằng nước đến hộ gia đình, đến huyện, xã, không thể dùng các công trình tạm thời mãi.

Ông có thể chia sẻ thông tin về tiến độ của các công trình thời gian tới, các công trình sẽ tác động như nào đến việc chống hạn, mặn hiện nay?

- Sau đợt hạn mặn năm 2015-2016, Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo rất quyết liệt và đã có nghiên cứu để đầu tư 11 công trình; trong đó 5 công trình đã đưa vào sử dụng sớm trước từ 5-14 tháng trong đợt này.

Nhiều công trình đang được đốc thúc đẩy mạnh triển khai, đặc biệt hệ thống cống Cái Lớn - Cái Bé để điều tiết mặn - ngọt cho toàn bộ Hậu Giang và một phần Kiên Giang, Cà Mau. Những công trình này khi phát huy hiệu quả đầy đủ sẽ tác động đến khoảng 1 triệu ha lúa, cây ăn trái và vùng nuôi trồng thuỷ sản cũng sẽ được điều tiết.

Về trung hạn 2021-2025, chúng tôi đang bàn với các tỉnh sẽ tập trung đầu tư các hệ thống thủy lợi liên vùng, mang tính động lực để góp phần vào việc tái cơ cấu nông nghiệp và đảm bảo khắc phục được tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn.  

Dự kiến ngân sách nhà nước bỏ ra khoảng 30.000 tỷ đồng. Ngoài ra, chúng tôi đang bàn với một số định chế tài chính nước ngoài, ví dụ như World Bank, ADB để có một số nguồn vốn vay, đặc biệt là tập trung vào nguồn nước sạch cho ĐBSCL để ngay lập tức trong vòng hai năm tới giải quyết được câu chuyện thiếu nước sinh hoạt.

Qua các đợt hạn mặn lịch sử vừa qua thì ông có nhìn nhận gì về chiến lược nước cho khu vực này?

- Thực ra thì chúng ta đã bàn đến câu chuyện này khá lâu rồi và đến thời điểm này, đặc biệt sau đợt mặn vừa qua thì càng cần phải đặt ra một bài toán về an ninh nguồn nước; có hai yếu tố chủ yếu là đảm bảo đủ nước, chủ động để đảm bảo cân đối được nguồn nước và nguồn nước không ô nhiễm.

ĐBSCL thường thiếu nước từ tháng 12 đến tháng 4, không phải lúc nào cũng thiếu, chính vì thế bằng các giải pháp điều tiết đảm bảo an ninh nguồn nước cho ĐBSCL, các bộ, ngành, địa phương và các nhà nghiên cứu đều thống nhất giải pháp đầu tư trên tinh thần không hối tiếc. Những công trình nào đảm bảo không hối tiếc thì làm trước. Những công trình nào mà khi chúng ta làm có thể gây ra những tác động ảnh hưởng thì chúng ta phải tính toán cụ thể và đầu tư sau.

Xin cảm ơn ông!

Đọc thêm