Cuộc sống ven biển bị khí hậu cực đoan đe dọa

(PLVN) -  Trái đất nóng lên, băng hai cực tan khiến nước biển dâng cao, tàn phá các thành phố, thị trấn, khu vực nông nghiệp và tài nguyên nước ngọt ở các khu vực ven biển. Nhiều cộng đồng dân cư ven biển ở các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam đang phải “vật lộn” để thích ứng với hệ quả của biến đổi khí hậu.
Khí hậu khắc nghiệt khiến người dân sống ven biển khó ra khơi đánh bắt cá. Ảnh: Getty Image

Thực tế “u ám” khi trái đất nóng lên

Các nước ở Đông Nam Á, Ấn Độ - Thái Bình Dương và châu Phi vốn chủ yếu dựa vào ngành thủy sản để duy trì sinh kế và phát triển kinh tế. Chính vì vậy, cộng đồng ven biển của những quốc gia này đều phải đối mặt với nhiều nguy cơ, hiểm họa từ cuộc khủng hoảng khí hậu. Theo một nghiên cứu được công bố bởi Sáng kiến Đánh giá Thực phẩm Xanh (BFA) năm 2021 đã chỉ ra, hàng triệu người ở các nước đang phát triển đã và đang phải đối mặt với sự bất ổn gia tăng về lương thực và kinh tế do sự đe dọa của biến đổi khí hậu đối với các hệ thống thực phẩm thủy sản. Nói cách khác, biến đổi khí hậu tạo ra “nguy cơ kép” đối với các cộng đồng dựa vào nghề cá.

Theo bà Michelle Tigchelaar, đồng tác giả chính của báo cáo và là nhà nghiên cứu tại Trung tâm Giải pháp Đại dương - Đại học Standford (Hoa Kỳ), ngành đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản tạo ra công ăn việc làm cho hơn 100 triệu lao động và cung cấp thực phẩm cho trên 3 tỷ người trên toàn thế giới. Nếu không hạn chế tác động của biến đổi khí hậu bằng cách giảm phát thải khí nhà kính, các quốc gia dựa vào ngành thủy sản sẽ có nguy cơ mất đi nhiều nguồn lợi chính làm ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, nền kinh tế, văn hóa, sức khỏe và dinh dưỡng cho con người. Cụ thể, theo một kịch bản phát thải cao vào năm 2050, nghiên cứu cho biết có hơn 50 quốc gia đối mặt với đồng thời ba nguy cơ cao bao gồm những thảm họa khí hậu, nguy cơ bị tác động và tính dễ bị tổn thương.

Ở khu vực Nam Á, Bangladesh là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi lũ lụt và mất mùa, khiến gần một nửa số người dân, ước tính khoảng 19,9 triệu người phải di cư vì khí hậu cực đoan. Các ngôi làng ven biển thường xuyên bị “tấn công” bởi thiên tai. Đơn cử, cuộc sống tại ngôi làng Pratapnagar, thuộc quận Satkhira gần Sundarbans, thường xuyên bị đe dọa bởi hiện tượng thủy triều lên, phá vỡ con đê bùn bảo vệ cộng đồng dân cư. Ở ngôi làng Katmarchar, trận lũ lụt từ siêu bão Amphan năm 2020 đã phá hủy hầu như tất cả ruộng lúa của người dân, khiến họ phải chuyển sang nghề khác. Mặt khác, bão Yaas đổ bộ vào Vịnh Bengal vào tháng 5/2021 đã nhấn chìm hầu hết các giếng ống trong làng Gantirgheri gần thành phố Khulna. Sau cơn bão, khu vực này vẫn tiếp tục bị nhấn chìm khi thủy triều lên.

Tại Bandarbeyla, một thị trấn tại đông bắc Somalia (châu Phi) là một trong những khu vực ven biển của đất nước này chứng kiến rõ nhất những tác động của biến đổi khí hậu. Trận sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 đã giết chết hàng trăm người Somalia và phá hủy hơn 300 ngôi nhà. Thậm chí đến nay, 17 năm sau, một số gia đình vẫn đang phải sống trong những ngôi nhà tạm bợ vì không đủ khả năng xây dựng lại những ngôi nhà kiên cố. Nghề chài cá là sinh kế chủ yếu của người dân nơi đây cũng bị ảnh hưởng nặng nề do tàu thuyền bị phá hủy. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu đã làm thay đổi các mô hình gió, tác động đến những đàn cá di chuyển, theo trả lời thị trưởng thị trấn Bandarbeyla - Rashid Yuusuf với tờ Guardian (Anh).

Còn ở Bulhar, một thị trấn khác về phía bắc nước này, nhiệt độ tăng cao (thường vượt quá 40 độ C trong ngày) đã khiến cư dân tại đây phải di dời về phía đất liền để tìm kiếm khí hậu mát mẻ hơn. Theo một thống kế vào năm 2021, thị trấn này chỉ còn khoảng 500 dân sinh sống, so với dân số vào khoảng 2.000 người trước đây. Nhiệt độ nước biển cao cũng khiến những đàn cá di chuyển vào vùng nước sâu hơn, khiến việc đánh bắt cá trở nên khó khăn.

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp quốc (FAO), trong những năm gần đây, sự thay đổi nhiệt độ bất thường và các hiện tượng biến đổi khí hậu khác sẽ tác động mạnh đến nghề cá và nuôi trồng thủy sản. Đơn cử, một trong các điều kiện thời tiết khắc nghiệt xảy ra thường xuyên hơn ở những vùng biển có thể kể đến hiện tượng El Nino ở Nam Thái Bình Dương – hiện tượng tự nhiên làm cho nhiệt độ bề mặt nước biển nóng lên. Tình trạng này tạo ra sự thay đổi trong tỷ lệ phân bổ cá, đổ dồn đến những vùng có nước biển ấm hơn so với những nơi lạnh lẽo. Đối với cộng đồng người dân sống phụ thuộc vào nghề cá, bất kỳ sự suy giảm nào về nguồn cung hoặc chất lượng cá cũng đều ảnh hưởng đến sự bền vững sinh kế của họ.

Cuộc sống và sinh kế ven biển vốn dễ bị tổn thương trước các tác động của hiện tượng ấm lên toàn cầu, nước biển dâng. Ảnh: AFP

Việt Nam không ngoại lệ

Với đường bờ biển dài 3.260km, vùng ven biển Việt Nam đang ngày càng bị đe dọa trước những hậu quả của biến đổi khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế và cuộc sống nơi đây. Người dân ở ven biển Việt Nam thường xuyên phải hứng chịu rất nhiều thiên tai như bão, lũ, triều cường, lũ, xói lở bờ biển, hạn hán hoặc xâm nhập mặn. Trong những năm gần đây, các rủi ro thiên tai đều có dấu hiệu gia tăng theo chiều hướng cực đoan và bất thường hơn. Biến đổi khí hậu làm chậm hơn khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển cho phúc lợi và sinh kế của con người. Các sinh kế chính sẽ chịu những ảnh hưởng trực tiếp nhất là thủy sản, nông nghiệp, du lịch và vận tải biển. Trong đó, khoảng 58% sinh kế ven biển Việt Nam đều dựa vào nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là những sinh kế phụ thuộc nhiều vào khí hậu và nguồn nước.

Theo Báo cáo “Tăng cường khả năng chống chịu khu vực ven biển” của Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi thảm họa thực hiện, có khoảng khoảng 12 triệu người dân ở các tỉnh ven biển có nguy cơ phải gánh chịu những trận ngập lụt lớn và hơn 35% các khu dân cư nằm dọc bờ biển đang bị xói lở. Thiên tai cũng gây ra thiệt hại lớn cho các ngành kinh tế và dịch vụ công trọng điểm. Mỗi năm, khoảng 852 triệu đô la Mỹ (0,5% GDP của Việt Nam) và 316.000 việc làm trong các ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và công nghiệp phải hứng chịu rủi ro do lũ lụt trực tiếp gây ra.

Có thể thấy những tác động của biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, lao động sản xuất của cộng đồng ven biển, sống dựa vào hệ sinh thái tự nhiên. Điều này khiến cho công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển sinh kế bền vững ven biển trở nên cần thiết và cấp bách hơn. Đến nay, các chiến lược sinh kế ứng phó với biến đổi khí hậu ở ven biển rất đa dạng, phụ thuộc vào khả năng thích ứng của hộ cá thể, cộng đồng, vùng lãnh thổ và quốc gia.

Đơn cử, tỉnh Hà Tĩnh là một trong những tỉnh miền Trung chịu nhiều tác động rõ nét của biến đổi khí hậu trong 2 thập kỷ qua, cũng được đánh giá là một trong những vùng có mức tăng nhiệt độ cao nhất ở Việt Nam. Trước những diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường của thời tiết, những năm qua tỉnh Hà Tĩnh đã huy động mọi nguồn lực, đặc biệt ở các huyện ven biển như: Nghi Xuân, Lộc Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh…, tập trung trồng rừng ngập mặn, xây dựng các công trình kè chống sạt lở bờ biển. Đồng thời, hàng năm người dân nơi đây đều tổ chức trồng cây phi lao chắn sóng, chống sạt lở và chắn cát bay. Các hộ gia đình ở sát biển thường xuyên neo giằng nhà cửa, có hộ còn mua gạch đá, xi măng xây kè chống sạt lở để ổn định cuộc sống lâu dài. Những giải pháp ứng phó nhằm mục đích giảm thiểu thiệt hại, góp phần ổn định cuộc sống của người dân, giúp họ bám nghề, bám biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Đọc thêm