Luật sư trả lời:
Hành vi của vợ anh Đ (tạm gọi là chị A) có dấu hiệu vi phạm pháp luật và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội làm nhục người khác”, quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015.
Tội làm nhục người khác có thể bằng lời nói như sỉ nhục, chửi bới thóa mạ, … nhằm hạ thấp nhân cách, danh dự của người bị hại. Cũng có thể bằng hành vi bỉ ổi (có hoặc không kèm lời nói thô tục) với chính bản thân mình hoặc người bị hại trước đám đông, để bêu rếu đối phương.
“Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm:
a) Phạm tội 2 lần trở lên;
b) Đối với 2 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm”.
Căn cứ vào quy định trên thì chị A đã đủ cấu thành phạm vào tội làm nhục người khác, nên hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.