Mở rộng định nghĩa “dịch vụ phát thanh truyền hình”
Một thay đổi cơ bản đáng chú ý của Dự thảo Nghị định là mở rộng định nghĩa “dịch vụ phát thanh truyền hình” bao gồm cả dịch vụ cung cấp nội dung theo yêu cầu trên Internet, tức là cả các chương trình trong nước, chương trình nước ngoài, phim và các nội dung có hình ảnh hoặc âm thanh khác.
Dự thảo yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này theo hình thức thu phí phải thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam và xin giấy phép tại Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) trước khi hoạt động. Các nội dung số như video, nhạc trực tuyến phải được biên tập, biên dịch theo quy định của Luật Báo chí, và nhà cung cấp phải đảm bảo tỷ lệ số lượng chương trình trong nước trong tổng số chương trình cung cấp trên dịch vụ theo yêu cầu trên mạng Internet không thấp hơn 30%.
Dự thảo cũng yêu cầu kênh chương trình nước ngoài cung cấp trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền tại Việt Nam phải không bao gồm nội dung quảng cáo được cài đặt sẵn từ nước ngoài. Các nội dung quảng cáo (nếu có) phải được cài đặt tại Việt Nam và do các cơ quan báo chí được cấp giấy phép biên tập là đầu mối thực hiện cài đặt quảng cáo, chịu trách nhiệm về thời lượng, nội dung quảng cáo bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật về quảng cáo như đối với kênh truyền hình trả tiền (có nghĩa là không vượt quá 5% thời lượng nội dung).
Tại hội thảo vừa được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp cùng Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (Amcham) tổ chức tuần qua, ông Vũ Tú Thành - đại diện Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN tại Việt Nam và Hiệp hội Truyền hình đa kênh châu Á (AVIA- trước đây là Hiệp hội Truyền hình trả tiền châu Á - Thái Bình Dương) - đề nghị cơ quan quản lý cần khoanh vùng quản lý tập trung vào các dịch vụ có thu phí vì số lượng các nội dung miễn phí trên Internet rất lớn, khó bao quát hết. Đồng thời, ông cũng lưu ý tính khả thi trong một số quy định của Dự thảo, ví như việc yêu cầu các DN cung cấp nội dung phải nộp hồ sơ xin cấp phép cho Bộ TT&TT bao gồm danh mục nội dung dự kiến và thỏa thuận bản quyền đối với chủ sở hữu bản quyền.
Doanh nghiệp không rõ Bộ nào quản lý
Bà Nguyễn Minh Thảo - Trưởng ban Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) - cho rằng, mục đích sửa đổi NĐ này nhằm đảm bảo cạnh tranh và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường, tuy nhiên, dự thảo NĐ lại quy định thêm việc cấp phép, dường như đi ngược lại với mục tiêu này.
“Dự thảo không bổ sung thêm điều kiện kinh doanh nhưng lại bổ sung danh mục ngành nghề, dịch vụ PT-TH trả tiền. Như vậy, trong dự thảo này đã mở rộng phạm vi lĩnh vực quản lý. Điều đó thậm chí có tác động lớn hơn việc bổ sung điều kiện kinh doanh. Phạm vi điều chỉnh của dự thảo mở rộng đến tất cả các nội dung có hình ảnh hoặc âm thanh, như vậy sẽ bao phủ một khối lượng rất lớn nội dung trên online” - bà Nguyễn Minh Thảo nói.
Nhất trí với ý kiến của CIEM, ông Nguyễn Văn Nhiêm - Chủ tịch Hiệp hội Phát hành và Phổ biến phim Việt Nam - cho rằng, nội dung Dự thảo NĐ mở rộng quá nhiều, gây khó khăn hơn cho DN trong quá trình hoạt động, thậm chí đề cập đến các lĩnh vực ngoài phạm vi quản lý của Bộ TT&TT như lĩnh vực phim điện ảnh hay yêu cầu tỷ lệ tối thiểu 30% các chương trình trong nước..., khiến các DN không rõ Bộ TT&TT hay Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch sẽ quản lý vấn đề này.
Luật sư Đặng Thanh Sơn - chuyên gia về luật và chính sách từ Công ty Baker McKenzie - cũng bày tỏ lo ngại về một số thay đổi trong Dự thảo NĐ có thể tạo thêm các gánh nặng về thủ tục hành chính cho DN và là rào cản cho hoạt động đầu tư vào lĩnh vực nội dung số tại Việt Nam. “Chẳng hạn, các DN muốn gia nhập thị trường sẽ cần huy động một nguồn lực lớn để đảm bảo công tác quản lý và triển khai các quy định, đặc biệt là quy định yêu cầu đăng ký thêm giấy phép cung cấp dịch vụ PT-TH trả tiền và biên tập, biên dịch” – Luật sư Sơn nói.
Được biết, những ý kiến từ cộng đồng DN trong nước và nước ngoài - đối tượng sẽ thực thi và chịu tác động trực tiếp từ những quy định của NĐ - sẽ được VCCI tổng hợp và gửi đến các cơ quan hữu quan nhằm góp phần xây dựng một văn bản pháp luật hiệu quả, có tính khả thi, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy DN phát triển bền vững.