Niềm tin sai lầm về khả năng hồi phục của trẻ em
Nhiều người lớn vẫn lầm tưởng trẻ em có khả năng tự phục rất nhanh chóng sau tổn thương. Thế nhưng, sau nhiều năm nghiên cứu, tiến sĩ Bruce D. Perry và các đồng sự đã chỉ ra một sự thật rằng, khi gặp phải sang chấn, trẻ em mới chính là đối tượng phải chịu những tác động nghiêm trọng và lâu dài hơn cả, có khi kéo dài cả đời.
Với vai trò bác sĩ tâm thần nhi, tiến sĩ Bruce D. Perry đã nghiên cứu cũng như điều trị cho vô số trẻ em từng trải qua sang chấn - từ việc bị ngược đãi, bạo lực, lạm dụng nghiêm trọng, cho đến bị bỏ bê hoặc chứng kiến tội ác kinh hoàng - và ông nhận ra một điều rằng: trẻ em không hề “tự phục hồi” như người ta vẫn nghĩ. Tất cả các sự kiện gây sang chấn đều tạo ra những tác động phức tạp, khó lường và kéo dài đối với các em. Những gì các em không biểu đạt, chia sẻ được bằng lời sẽ được biểu lộ qua các phản ứng bản năng mang tính cực đoan, không phù hợp độ tuổi - thường khiến người lớn nhầm tưởng các em mắc các khiếm khuyết bẩm sinh về thể chất hoặc các chứng rối loạn tâm lý như ADHD, ADD…
Trong quá trình hành nghề, Perry nhận ra rằng, tuy phần lớn trẻ em không phải chịu đựng những chuyện kinh khủng như nhiều bệnh nhi của ông phải nếm trải, tuy nhiên, hiếm có đứa trẻ nào hoàn toàn chưa gặp phải sang chấn.
Theo ước tính, khoảng 40% trẻ em Mỹ sẽ gặp ít nhất một trải nghiệm có khả năng gây sang chấn trước khi bước vào tuổi mười tám, bao gồm việc mất mát người thân, bị bỏ bê, bị xâm hại tình dục, đối mặt với thiên tai hay một tai nạn nghiêm trọng, sống trong bạo lực gia đình hay các tội ác bạo lực khác…
Cuốn sách “Đứa trẻ được nuôi trong chuồng chó” do tiến sĩ Perry và nhà báo Maia Szalavitz thực hiện đã chọn lọc những ca bệnh điển hình trong quá trình làm việc và nghiên cứu, được sắp xếp theo trình tự thời gian, cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự phát triển của lĩnh vực tâm thần nhi. Theo đó, tác giả không chỉ lật đổ quan niệm sai lầm về khả năng tự phục hồi ở trẻ em mà còn cho thấy tác động của sự vô tâm, nghèo đói, bạo lực, lạm dụng tình dục… có thể hủy hoại những nhân cách còn non trẻ và những bộ não đang trong quá trình phát triển ra sao.
Theo tiến sĩ Perry, chữa lành nên bắt đầu từ não bộ. Não của trẻ bị chấn thương có thể được định hình lại bằng những trải nghiệm lặp đi lặp lại, có khuôn mẫu trong một môi trường an toàn. Khi các khuôn mẫu hoạt động thần kinh được lặp đi lặp lại, xảy ra đồng thời hoặc cùng diễn ra, một mối liên hệ sẽ được hình thành giữa các khuôn mẫu này. Nếu đó là những mối liên hệ mang lại cảm giác dễ chịu, một vòng lặp tốt đẹp sẽ được khởi đầu.
Thông qua những ghi chép của mình, tiến sĩ Perry đã làm sáng tỏ một thực tế rằng chỉ khi thấu hiểu quá trình phát triển của não bộ và cơ chế hoạt động của tâm trí, ta mới có hy vọng ngăn ngừa và chữa lành nỗi đau tinh thần của trẻ em.
Không có phương pháp thần kỳ nào ngoài tình yêu thương
Trong một số chương trình truyền hình liên quan đến tâm lý tuổi mới lớn, khi được hỏi các em cần điều gì ở cha mẹ, phần lớn câu trả lời chính là thời gian. Nhiều bậc phụ huynh cho rằng điều kiện tài chính là quan trọng nhất để nuôi dạy con trẻ mà quên đi việc dành thời gian bên con. Thế nhưng, chính sự quan tâm và tình yêu thương mới là liều thuốc tốt nhất cho sự phát triển của trẻ. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với trẻ em gặp sang chấn.
Theo tiến sĩ Perry, càng có nhiều mối quan hệ lành mạnh thì một đứa trẻ càng có nhiều khả năng hồi phục sau sang chấn và phát triển mạnh mẽ. Các mối quan hệ chính là tác nhân của sự thay đổi và liệu pháp hiệu quả nhất chính là tình yêu thương của con người.
Tiến sĩ Perry nhấn mạnh: “Những đứa trẻ rắc rối thường phải chịu đựng một nỗi đau nào đó – và nỗi đau khiến người ta trở nên dễ nổi cáu, lo âu và hung hăng. Không hề có phương pháp chữa lành ngắn hạn thần kỳ nào cả, mà chỉ có sự chăm sóc một cách kiên nhẫn, yêu thương và nhất quán mới mang lại hiệu quả. Điều này đúng với một đứa trẻ ba, bốn tuổi và cũng đúng với một thiếu niên”.
Tuy là tập hợp những ghi chép của một tiến sĩ, bác sĩ tâm thần nhi nhưng “Đứa trẻ được nuôi trong chuồng chó” không hề khô khan hay khó đọc, mà ngược lại, nó vô cùng giàu thông tin và cảm xúc. Tiến sĩ Perry và nhà báo Maia Szalavitz đã khéo léo cân bằng lượng thông tin khoa học khổng lồ cùng những câu chuyện kể, từ đó giúp cho độc giả có trải nghiệm đọc tốt hơn.
Mặc dù các em nhỏ trong sách đã phải trải qua nhiều bi kịch đau lòng nhưng hầu hết các câu chuyện đều có cái kết tốt đẹp. Từ các em, chúng ta học được những bài học quý giá về sự mất mát, tình yêu thương và cả sự chữa lành. Như tiến sĩ Perry đã chia sẻ: “Ngạc nhiên thay, khi lang thang qua những bãi tha ma cảm xúc gây ra bởi phần tăm tối nhất trong nhân cách con người, chúng ta thường cũng sẽ tìm thấy những phần nhân tính cao đẹp nhất”.
Không chỉ vậy, câu chuyện từ các em cũng giúp cho những người lớn - cha mẹ, thầy cô, người làm công tác xã hội, người làm chính sách, lực lượng hành pháp hay bất cứ ai làm việc liên quan đến trẻ em - sẽ biết rõ hơn những gì mà trẻ em cần ở ta, để từ đó có thể xây dựng hệ thống chăm sóc và bảo vệ cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em.
Ngay sau khi xuất bản, cuốn sách đã nhanh chóng được độc giả đón nhận với nhiều phản hồi tích cực. Đến nay, “Đứa trẻ được nuôi trong chuồng chó” đã được dịch ra hơn mười lăm ngôn ngữ và được đưa vào giảng dạy trong nhiều chương trình đại học. Cùng với đó, Mô hình trị liệu thần kinh tuần tự (Neurosequential Model of Therapeutics, viết tắt là NMT) cũng liên tục thu hút được sự quan tâm của công chúng.
Nói về cuốn sách, tác giả Andrew Vachss – sáng lập viên và thành viên ủy ban cố vấn của PROTECT: Hiệp hội Bảo vệ Trẻ em Quốc gia – nhận xét: “Đứa trẻ được nuôi trong chuồng chó là tác phẩm tuyệt vời nhất của Bruce Perry… Cuốn sách cho độc giả cơ hội mở khóa bí ẩn sâu thẳm nhất của giống loài chúng ta: Tại sao một số trẻ em lớn lên trở thành những anh hùng và một số khác lại thành những kẻ phản xã hội khát máu. Bất cứ ai muốn hiểu về sang chấn tuổi thơ và các hệ lụy đau lòng của nó cần phải đọc cuốn sách này.”
Tiến sĩ, bác sĩ Bruce D. Perry (1955) là giảng viên, chuyên gia lâm sàng và nhà nghiên cứu tích cực về sức khỏe tâm thần của trẻ em và khoa học thần kinh. Nghiên cứu của ông về tác động của việc lạm dụng, bỏ bê và chấn thương đối với bộ não đang phát triển đã tác động đến thực hành lâm sàng, các chương trình và chính sách trên toàn thế giới.
Tiến sĩ Perry là tác giả của hơn 500 bài báo, chương sách và kỷ yếu khoa học. Ông nhận được nhiều giải thưởng và bằng danh dự chuyên môn, bao gồm Giải thưởng Vận động về Sức khỏe Tâm thần Trẻ sơ sinh T. Berry Brazelton, Giải thưởng Lãnh đạo về Phúc lợi Trẻ em Công cộng và Huy chương trăm năm của Alberta.
Maia Szalavitz (1965) là một tác giả và nhà báo từng đoạt giải thưởng, chuyên viết về chứng nghiện và khoa học thần kinh. Nhờ những đóng góp của mình, bà từng giành được các giải thưởng lớn từ các tổ chức uy tín như Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, Liên minh Chính sách Ma túy và Trường Cao đẳng Dược lý Thần kinh Hoa Kỳ.