Khi sự hy sinh trở thành “lồng nhốt” yêu thương
Trên các diễn đàn về gia đình, không khó để gặp những chia sẻ đầy nước mắt của những người phụ nữ gặp bất hạnh trong gia đình. Trong số đó có nhiều cuộc hôn nhân địa ngục nhưng không giải thoát được cho nhau. Có người chịu đựng sự bạo lực tinh thần lẫn thể chất từ người đầu ấp tay gối, người thì chồng cờ bạc, nợ nần, ngoại tình thường xuyên. Có đôi vợ chồng tình cảm dành cho nhau đã tắt, chỉ còn ghét bỏ. Và lý do không rời đi dù khổ sở, dù hết cả tình lẫn nghĩa, hầu hết đều là “chịu đựng vì con”.
Một thời gian rất dài, từ xã hội phong kiến cho đến nay, trong văn chương, trong thi ca, trong cả những câu chuyện kể dân gian, người Việt đã ca ngợi đức hy sinh rất nhiều. Nhiều đến mức vô hình trung nó trở thành một chuẩn mực của yêu thương. Yêu thương là phải đi kèm với hy sinh và hy sinh mới là cảnh giới cao nhất của tình thương.
Nhưng, đã bao giờ chúng ta tự hỏi: Liệu tình yêu thương có nhất thiết phải đi kèm với sự hy sinh đến mức khổ đau? Ranh giới nào giữa sự hy sinh và sự dung túng cho bạo lực, cả về thể chất lẫn tinh thần?
Theo "Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam" năm 2019 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) phối hợp thực hiện, một con số đáng báo động được đưa ra: gần 2/3 (62,9%) phụ nữ đã kết hôn từng trải qua ít nhất một hoặc nhiều hơn các hình thức bạo lực (thể chất, tình dục, tình cảm, kinh tế và kiểm soát hành vi) do chồng gây ra trong đời. Đáng chú ý, 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể chất và/hoặc tình dục không tìm kiếm bất kỳ sự giúp đỡ nào.
Vì sao họ im lặng? Một phần lớn câu trả lời nằm ở hệ giá trị đã ăn sâu vào tiềm thức: "Xấu chàng hổ ai", "vì con mà nhịn". Sự hy sinh đã vô tình trở thành đồng minh của bạo lực, buộc nạn nhân phải chịu đựng trong câm lặng để bảo vệ một thứ hạnh phúc giả tạo. Nỗi đau của họ không được gọi tên, sự tổn thương của họ bị xem nhẹ dưới cái bóng quá lớn của "trách nhiệm" và "đức hy sinh".
Đức hy sinh trong xã hội Việt Nam từ ngàn xưa đến nay, không chỉ nói đến đối tượng chính là người phụ nữ, mà còn chỉ sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái. Về căn bản, cha mẹ hy sinh cho con cái là biểu hiện một tình yêu thương không cần đáp trả, cao đẹp, không vụ lợi. Thế nhưng, có thực là sự hy sinh của cha mẹ bao giờ cũng đem lại hạnh phúc cho con?
Không thiếu những câu chuyện buồn về việc cha mẹ một đời hy sinh, dành tất cả những điều tốt đẹp nhất cho con, để rồi cái nhận được là những đứa trẻ được nuông chiều đến vô ơn, những đứa con bất hiếu, vô dụng với cuộc đời.
Không chỉ thế, rất nhiều khi, sự hy sinh của cha mẹ lại là chiếc “vòng kim cô” khiến con ngột ngạt và khổ đau. Đó là khi sự hy sinh đi kèm với kì vọng quá mức, với sự đòi hỏi đáp đền bằng cách này hay cách khác.
Trong một chương trình truyền hình thực tế được phát sóng thời gian qua, có một cậu bé mới chỉ 10 tuổi, nhưng đã chia sẻ những tâm tư đáng để người lớn suy ngẫm: Ba mẹ cứ suốt ngày nói với con là ba mẹ hy sinh tất cả vì con. Cho con ăn những món ngon bổ nhất, cho con học trường tốt nhất, học thêm rất nhiều. Ba mẹ muốn con sau này giỏi giang, đi du học. Nhưng ba mẹ có thực sự biết con muốn gì không? Con thấy việc học rất mệt, con thấy con học quá nhiều, con thấy ba mẹ quá khổ sở, muốn ba mẹ giống như ba mẹ của bạn con, chỉ cần yêu thương và chơi với con, đừng bắt con thành người giỏi giang gì cả...”.
Có bao nhiêu đứa con khi lớn lên nhận ra rằng sự hy sinh cực đoan của cha mẹ đi kèm độc hại, bao nhiêu người con ao ước rằng giá mà cha mẹ biết yêu thương bản thân hơn?
Trong những năm gần đây, tỉ lệ trẻ em trầm cảm ở nước ta có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ. Theo báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam, tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần chung ở nước ta là 8 - 29% đối với trẻ em và vị thành niên. Trong số đó, có bao nhiêu trẻ vì gánh nặng của sự hy sinh và kì vọng quá mức mà trở nên khép kín, tổn thương?
Sự hy sinh, về bản chất, là một hành động tự nguyện cho đi những lợi ích của bản thân vì người khác. Đó là một giá trị đáng quý. Tuy nhiên, khi sự hy sinh bị đẩy đến cực đoan, bị coi là nghĩa vụ mặc định và là thước đo duy nhất của tình yêu, nó sẽ biến thành một chiếc lồng son giam hãm chính người nhận sự hy sinh.
Chuyển hóa hệ giá trị trong gia đình Việt
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, trong những bài giảng của mình nói rất nhiều đến “tình thương phải đi kèm hiểu biết”, “hiểu và thương”. Thầy nói rằng: “Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu. Mỗi người đều có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau suốt đời. Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau...”.
![]() |
Tôn trọng, công bằng và đối thoại là cốt lõi hạnh phúc của gia đình hiện đại. (Ảnh: ST) |
Để phá vỡ vòng lặp của tổn thương và xây dựng những gia đình thực sự hạnh phúc, việc chỉ giải quyết những vấn đề ở bề nổi là không đủ. Chúng ta cần một cuộc dịch chuyển tận gốc rễ trong hệ giá trị, với những giá trị cốt lõi là sự tôn trọng, công bằng và đối thoại.
Trong đó, tôn trọng không chỉ là lời nói lễ phép, mà là sự công nhận giá trị độc lập của mỗi cá nhân trong gia đình. Mỗi cá nhân cần được tôn trọng không gian riêng tư, bao gồm khoảng trời riêng của cá nhân, những bí mật nho nhỏ cho đến những mối quan hệ bạn bè, sở thích cá nhân.
Mỗi thành viên trong gia đình cũng cần được tôn trọng về mặt cảm xúc. Nhiều gia đình vẫn mặc định rằng “phụ nữ ít tiếng nói hơn đàn ông” hay “trẻ con thì biết gì”. Nhưng, ở gia đình hiện đại, không nên có ý kiến nào là "vô lý" hay "trẻ con". Mọi cảm xúc, dù là vui, buồn, giận dữ hay thất vọng, đều cần được lắng nghe và thừa nhận thay vì bị phán xét hay gạt đi. Một người vợ được tôn trọng cảm xúc sẽ có động lực mạnh mẽ để vun vén gia đình. Một đứa trẻ được tôn trọng ý kiến từ nhỏ sẽ lớn lên tự tin và biết cách tôn trọng người khác.
Cùng như thế, mỗi thành viên trong gia đình cần được tôn trọng ước mơ và con đường phát triển cá nhân. Tình yêu là sự ủng hộ để mỗi người trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình, chứ không phải là sự kìm hãm hay ép buộc người kia phải sống theo mong muốn của mình. Tương tự, cha mẹ là người dẫn đường, không phải người vẽ sẵn bản đồ cuộc đời cho con cái, con cái cũng không phải là đối tượng gánh vác giấc mơ của cha mẹ.
Nói đến công bằng trong gia đình là nói đến sự chia sẻ để cùng nhau gánh vác và xây đắp. Đối với vợ chồng, “công bằng” không có nghĩa là cào bằng, chia công việc, trách nhiệm như nhau, mà mỗi người, bằng ưu thế, bằng vai trò riêng của mình, đóng góp giá trị để cùng xây dựng gia đình. Đối với con cái, công bằng là cách mà cha mẹ đối xử giữa các con với nhau, cũng là điều luôn dạy con trong cách ứng xử với cuộc đời.
Trong ba yếu tố, thì “đối thoại” là điều ít khi được nhắc đến. Trong khi đó, đối thoại trong gia đình rất quan trọng, là một công cụ chữa lành và kiến tạo mạnh mẽ. Nếu như bạo lực nảy sinh từ sự bất lực trong giao tiếp, thì đối thoại chính là liều thuốc giải hữu hiệu. Đối thoại không phải là tranh luận thắng thua, mà là một nỗ lực để thấu hiểu.
Đối thoại phải luôn đi kèm với các yếu tố: Lắng nghe tích cực, tức lắng nghe bằng cả trái tim, lắng nghe với sự thấu hiểu, không phán xét. Bày tỏ một cách chân thành, thẳng thắn, không đi kèm nóng giận.
Đối thoại không chỉ là giữa những người lớn trong nhà, mà cần phải có sự đối thoại ở trẻ. Đối thoại là cơ hội hiểu nhau, gỡ rối giữa cha mẹ và con cái, của anh chị em với nhau. Đó cũng là cách để giải quyết những mâu thuẫn nhỏ trước khi chúng tích tụ thành những cơn bão lớn. Một khi mỗi thành viên của gia đình học được cách đối thoại đúng đắn, sẽ không còn chỗ cho tức giận, đau khổ và bạo lực.
Thay đổi một hệ giá trị đã tồn tại qua nhiều thế hệ không phải là chuyện một sớm một chiều. Nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, lòng dũng cảm và nỗ lực từ mỗi cá nhân. Hành trình đó bắt đầu từ việc chúng ta tự vấn lại chính những định kiến của mình về tình yêu, về hôn nhân, về vai trò của vợ, chồng, cha, mẹ trong gia đình.
Tất nhiên, sự hy sinh, nếu hiểu theo đúng nghĩa tích cực của nó, là điều rất đáng quý, đáng trân trọng. Cái chúng ta cần thay đổi ở đây, là đừng nên có một sự hy sinh mang ý nghĩa cực đoan, hay nói đúng hơn là “nhân danh sự hy sinh” để ràng buộc, tổn thương lẫn nhau.
Một gia đình hạnh phúc đích thực là gia đình mà mọi thành viên không cần phải hy sinh hạnh phúc của mình để đối phương được hạnh phúc, mà đều cảm nhận được tình yêu thương một cách tích cực. Như thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nói: “Gia tài quý giá nhất mà bố mẹ dành cho con cái đó chính là hạnh phúc của riêng họ. Bố mẹ của chúng ta có thể để lại cho chúng ta tiền, nhà cửa và đất nhưng có lẽ họ không phải là những người hạnh phúc. Nếu bố mẹ của chúng ta hạnh phúc thì đó là món quà thừa kế giá trị nhất mà chúng ta được nhận lấy”...