Đỗ Hoàng giáp vẫn được gọi là Trạng Phùng Khắc Khoan, tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng. Ông sinh năm 1528, tức là một năm sau Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê (1257) tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Số là, bà Nhữ Thị Thục, mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm, con gái Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lân, là bậc nữ lưu tài hoa vào bậc nhất chốn kinh kỳ thời bấy giờ.
Bà giỏi văn chương và lý, số, có ước vọng lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Nhưng rồi do bất bình với ông Nguyễn Văn Định, cha của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà đã bỏ đi. Tương truyền, sau đó bà Thục lấy một người họ Phùng và sinh ra Phùng Khắc Khoan, tức Trạng Bùng. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu thì thực chất đó chỉ là giai thoại.
Là học trò của Trạng Trình, nổi tiếng là người có văn tài, kiêm thông cả thuật số, nhưng ông không đi thi và không chịu ra làm quan dưới triều Mạc, vì cho rằng nhà Mạc tiếm ngôi nhà Lê. Năm Đinh Tỵ (1557), Phùng Khắc Khoan đỗ đầu khoa thi Hương ở Yên Định (Thanh Hóa) lúc 29 tuổi. Biết ông là người mưu lược, có học thức uyên bác, Thái sư Trịnh Kiểm cho giữ chức Ký lục ở ngự dinh, trông coi quân dân bốn vệ và cho tham dự việc cơ mật, song ông cũng không thật tha thiết với nhà Trịnh.
Năm Canh Thìn (1580) đời Lê Thế Tông, bắt đầu mở thi Hội ở Vạn Lại (Thanh Hóa), ông xin dự thi và đỗ Hoàng giáp, được thăng làm Đô cấp sự. Năm 1582, ông xin từ quan về nhà riêng ở Vạn Lại, song đến năm sau (1583) thì Vua vời ông ra làm Hồng lô tự khanh. Năm 1585 đổi ông sang làm Hữu thị lang Bộ Công, rồi cử làm Thừa chính sứ Thanh Hoa (tức Thanh Hóa). Năm 1592, nhà Lê Trung Hưng đánh đuổi được nhà Mạc, trở về kinh đô Thăng Long, Phùng Khắc Khoan được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng. Như vậy, chuyện gọi ông là Trạng do dân gian phục tài, chứ thực ra ông không đậu Trạng nguyên. Thậm chí, sau cuộc đi sứ nhà Minh thành công, dân gian còn lưu truyền ông là “Lưỡng quốc Trạng nguyên” nữa!
Gian nan chuyến đi sứ nhà Minh
Việc bang giao giữa nhà Lê và nhà Minh lúc ấy rất căng thẳng và phức tạp. Khi lên ngôi vua, các vua nhà Mạc đã tỏ ra yếu hèn, qụy lụy, tiến cống, hối lộ quá nhiều nên nhà Minh càng được thể. Lúc này, nhà Minh đòi Vua Lê phải lên tận Nam Quan để chúng “xác minh” xem Lê Thế Tông có đúng là con cháu nhà Lê hay không. Năm 1596, Vua Lê Thế Tông cũng lên Nam Quan để hội khán, nhưng đã bị quan nhà Minh tìm cách không gặp.
Cuối năm ấy, Vua sai Đỗ Uông và Trịnh Vĩnh Lộc đem hai tượng người bằng vàng, cùng các đồ vàng, bạc, lụa lên Nam Quan định hội khán cũng không thành. Tháng hai năm Đinh Mậu (1597), Đỗ Uông và Nguyễn Văn Giai lại lên Nam Quan thăm dò tình hình quân Minh, việc lại không thành. Tháng ba, Lê Thế Tông phải kéo đại quân sang Bằng Tường hội khán với các quan nhà Minh, cũng chẳng đi tới đâu. Bởi quan nhà Minh thường ăn đút lót của nhà Mạc nên kiếm cớ gây khó dễ.
Trong hoàn cảnh như vậy, năm Đinh Dậu (1597), Phùng Khắc Khoan đang làm Tả thị lang Bộ Công và đã ở tuổi 69 thì được vua Lê cử làm Chánh sứ sang triều Minh. Đi sứ nhà Minh lúc đó thực sự là một đại họa khôn lường. Trước đó vào thời nhà Mạc, Lê Như Hổ đi sứ bị sơn cả hai mắt, Lê Quang Bí bị chúng lấy mất đồ cống, bị vu cho là giả và bị giam cầm đến 18 năm sau mới được tha về. Khi sứ bộ do Chánh sứ Phùng Khắc Khoan dẫn đầu đến biên giới, quan nhà Minh không cho nhập cảnh. Ông đã đấu lý và cả đút lót vàng, bạc cho chúng thì cửa ải mới được mở. Hành trình gian nan của đoàn sứ từ tháng 7 năm Đinh Dậu đến tháng 8 năm sau mới đến Yên Kinh.
Đến Yên Kinh, đoàn sứ bộ phải tạm trú trong 5 tháng liền mà không được bàn đến việc chính là sang xin cầu phong cho Vua Lê Thế Tông. Trong triều đình nhà Minh lúc đó có phe ủng hộ sứ giả họ Phùng công nhận Vua Lê, có phe ăn tiền của nhà Mạc tìm cách trì hoãn. Ông đã mềm mỏng, ôn hòa và cương quyết buộc quan nhà Minh phải tổ chức để ông được dâng biểu cầu phong của Vua Lê lên Vua Minh. Việc phong vương tuy chưa đạt được (vua Minh chỉ phong cho Vua Lê chức Đồng thống), song cũng là một thắng lợi, vua quan nhà Minh phải coi nhà Lê là chính thống, không còn danh nghĩa gì để giúp quân Mạc.
Sử sách chép gì?
Sứ thần Triều Tiên là Lý Chi Phong đã miêu tả trong sách “Hậu chí” rằng: “Sứ thần họ Phùng tên là Khắc Khoan, tự hiệu là Nghị Trai, tuổi ngoại 70, hình dáng lạ lùng, răng nhuộm đen, tóc vận thành búi, áo dài, ống tay rộng. Khăn đội trên đầu thì lấy cả khổ vải đen trùm lên đầu như dáng khăn ông sư, để một nửa rủ về đằng sau xuống quá vai.
Ông họ Phùng, người tuy đã già, sức còn khỏe, thường đọc sách, viết sách luôn luôn...”. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Khắc Khoan đến Yên Kinh, vừa gặp tiết Vạn Thọ của Vua Minh, dâng 30 bài thơ lạy mừng. Anh vũ điện đại học sĩ thiếu bảo kiêm Thái tử thái bảo Lại bộ Thượng thư nhà Minh là Trương Vị đem tập thơ Vạn Thọ ấy dâng lên. Vua Minh cầm bút phê rằng: “Người hiền tài ở đâu mà không có. Trẫm xem thơ, thấy hết lòng trung thành của Phùng Khắc Khoan, rất đáng khen ngợi”, liền sai đưa xuống khắc in để ban hành trong nước. Khi ấy, sứ Triều Tiên là Hình tào tham phán Lý Toái Quang viết tựa cho tập thơ”.
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, phần “Nhân vật chí”, Phan Huy Chú đã viết về Phùng Khắc Khoan như sau: “… Bấy giờ nhà Minh nhận hối lộ của con cháu nhà Mạc, (nên) không chịu nhận sứ. Ông lúc còn đợi mệnh (Vua Minh), liền đưa thư cho Súy ty nhà Minh, kể rõ việc nhà Mạc cướp ngôi (nhà Hậu Lê)... Người Minh khen là có nghĩa mới cho sứ thần qua cửa quan.
Khi đã đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), Lễ bộ đường (triều Minh) trách về việc người vàng ta đem cống không làm theo mẫu cũ làm cúi đầu, nên lại ngăn không cho sứ vào chầu. Ông cãi lại rằng: “Nhà Mạc cướp ngôi, danh nghĩa là nghịch; nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng hình cúi đầu thay mình, đã là may lắm. Còn như đời Lê bao đời làm công thần: kiểu người vàng ngửa mặt, qui chế cũ còn đó. Nay lại bắt theo lệ nhà Mạc, thì lấy gì để khuyên việc chiêu an và trừng giới việc trách phạt được”.
Việc đến tai Vua Minh (Minh Thần Tông), cuối cùng lại cho theo thể thức cũ của nhà Lê buổi trước (tức tượng không cúi đầu). Bấy giờ ông mới được vào chầu, lĩnh ấn sắc đem về nước. Người Trung Quốc đều khen là sứ giỏi... Gặp ngày sinh nhật của Vua Minh, ông làm dâng lên 30 bài thơ, được Vua Minh phê rằng: “(Thế mới biết) nhân tài không chỗ nào là không có”... Ông lại cùng làm thơ với sứ Triều Tiên là Lý Toái Quang. Ông cầm bút viết xong ngay được, (khiến) Toái Quang rất phục tài... Trở về nước, chúa Trịnh Tùng rất kính trọng, gọi ông là “Phùng tiên sinh” mà không gọi tên, và người trong nước đều gọi ông là Trạng nguyên, vì kính mến tài năng của ông... Ông là người cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu. Văn chương ông thanh nhã, dồi dào, có các tập truyền ở đời”.
Khi ông về nước, một phái đoàn do Đỗ Uông dẫn đầu đã lên tận Nam Quan để đón. Vua Lê qua sông Cái đón ông về kinh đô. Ông đã được phong làm Thượng thư Bộ Hộ, Bộ Công, tước Mai Lĩnh hầu, rồi thăng tước Mai Quận công. Việc đáng kể nữa, đó là trong thời gian ở Trung Quốc, Phùng Khắc Khoan đã học bằng cách nhập tâm cách dệt the lượt mỏng, cách trồng ngô, vừng. Về nước, ông truyền dạy lại cho dân, vì vậy mà được tôn làm ông tổ các nghề ấy. Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó. /.