Hiu hắt nghiệp diễn tuồng

(PLO) - Tuồng cổ đáng được gìn giữ, nhưng chưa thực sự được quan tâm để nó có thể sống đàng hoàng và những nghệ nhân tuồng khỏi phải chạnh lòng. Có cố gắng cống hiến lên đến nghệ sĩ nhân dân, huy chương vàng, bạc ở các hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, làm mấy chục năm trong nhà hát mà tiền lương vỏn vẹn được gói tròn trong 5 triệu đồng đã là sang lắm.
Nghệ sĩ Tuồng dù lo cơm gạo áo tiền vẫn luôn gắn bó với nghề.
Nghệ sĩ Tuồng dù lo cơm gạo áo tiền vẫn luôn gắn bó với nghề.

Tâm huyết giữ bản sắc dân tộc mà lương “bèo bọt” 

Trong cơ chế tự chủ thì tuồng quả là vô cùng khó khăn. Ngoài các buổi biểu diễn giới thiệu nghệ thuật tuồng cho khách du lịch nước ngoài tại Rạp Hồng Hà, phố cổ đi bộ, một vài đêm biểu diễn đầu xuân, phục vụ 10 đêm chính trị tại vùng sâu, vùng xa thì tuồng không có khoản nào để thu nữa. 

 “Ai cũng biết rằng, tiền bồi dưỡng cho một buổi biểu diễn của diễn viên tuồng rất rẻ mạt. Diễn viên chính được 200 nghìn, phụ được 100 nghìn cho mỗi buổi mà có khi họ phải vất vả từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau.

Nếu như nghệ sĩ hát chèo có thể đi hát thêm những loại hình khác như xẩm, quan họ, dân ca để có thêm thu nhập thì chúng tôi không thể làm được như vậy. Làm như thế sẽ mất giọng của tuồng. Tiền lương, tiền cát-xê của diễn viên tuồng quá ít ỏi, những người nghệ sĩ như tôi luôn phải “cân đong, đo đếm” để duy trì cuộc sống đạm bạc” -  NSND Mẫn Thu, người đã gắn bó với tuồng hơn 40 năm không khỏi ngậm ngùi khi nhắc tới nghề. Bà ưu tư khi nghĩ tới thực tại, khán giả đến với tuồng ít quá, mà các diễn viên tuồng trẻ chẳng tha thiết với nghề.

Làm nghệ sĩ tuồng không hề đơn giản. Phương thức phản ánh của tuồng không đi vào tả thực mà chú trọng tả ý, nhằm lột tả “cái thần” của nhân vật, sự việc. “Cái thần” chính là đỉnh cao của nghệ thuật biểu diễn tuồng.

Múa tuồng được chắt lọc và cách điệu hóa từ võ thuật dân tộc, múa dân gian, múa tín ngưỡng, tôn giáo và các điệu bộ, động tác sinh hoạt, lao động hàng ngày. Hát tuồng với các cách nói lối, bài bản và làn điệu được hình thành từ những giai điệu trong tế lễ và hát xướng dân gian. Nói lối tuồng dựa theo văn biền ngẫu từ bốn đến tám chữ. Có nhiều kiểu nói lối khác nhau, mỗi loại đều có cách ngắt chữ, nhả chữ riêng.

Bài bản là hát theo nhịp phách còn làn điệu là hát có nhạc đệm riêng biệt. Bền bỉ học bao năm, họ mới thành những nghệ sĩ tuồng. Ấy thế nhưng, những giọt mồ hôi, công sức, tâm huyết giữ gìn bản sắc dân tộc được trả bằng món tiền nhỏ bé.

Lấy nghề tay trái “nuôi” nghề

Để tồn tại, người nghệ sĩ phải vất vả mưu sinh, xoay xở đủ nghề để kiếm sống. Giống như bao nghệ sĩ khác, cố nghệ sĩ tuồng Hán Văn Tình từng phải “chạy sô” kiếm thêm thu nhập. Đồng lương ít ỏi tại Nhà hát Tuồng T.Ư - nơi ông từng công tác khó mà nuôi được gia đình. Ông phải đi đóng hài, đóng phim, quay quảng cáo.

Mọi người biết tới ông với vai diễn Chu Văn Quềnh trong phim truyền hình “Đất và người”, chứ ít ai nhớ tới những vai diễn tuồng do ông đảm nhận, như vai Kiều Công Tiễn trong vở “Tiếng gọi non sông” hay vai ngự y trong vở “Tiếng thét giữa hoàng cung”…

Các đàn anh, đàn chị chật vật mưu sinh với nghề thì các nghệ sĩ tuồng trẻ cũng không thoát khỏi “vòng xoáy cơm áo”. Là gương mặt sáng giá của Nhà hát Tuồng Việt Nam, ngoài thời gian ở nhà hát, Lộc Huyền còn dạy hát tuồng cho người nước ngoài để trang trải cuộc sống. Cô gái tài sắc sinh năm 1981 đã đoạt Huy chương Vàng với vai “Hồ Nguyệt Cô hóa cáo” trong Liên hoan tài năng sân khấu trẻ toàn quốc 2003.  

Hầu hết các nghệ sĩ đều coi tuồng như một cái nghiệp. Khán giả không đến rạp, họ sẵn sàng đưa tuồng đến các trường học, mang các tác phẩm về các làng, xã ở những địa phương xa (như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn...)  để diễn, phục vụ khán giả.

Hỏi những người nghệ sỹ tuồng, thực tế buồn vậy, sao không từ bỏ tuồng, bước hẳn sang lĩnh vực điện ảnh, truyền hình - nơi thường được nhận cát-xê cao hơn, có nhiều đất diễn hơn, dễ nổi tiếng hơn, họ đều nhắc lại câu nói của của thầy - NSND Lê Tiến Thọ: “Diễn tuồng không chỉ là nghề mà còn là nghiệp đeo đẳng cả một đời”. NSND Lê Tiến Thọ đã ví những diễn viên tuồng như “con sáo đã trót ăn mặn”. Nghĩa là ai đã dính vào tuồng, yêu tuồng thì khó mà bỏ được. 

Nghệ thuật vốn kén khán giả khiến những người nghệ sỹ không khỏi day dứt, khắc khoải. Ông Phạm Ngọc Tuấn - Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam trùng giọng: “Không buồn làm sao được khi hiện nay khán giả trẻ quay lưng với sân khấu truyền thống. Họ hồ hởi đi xem phim nước ngoài, nghe nhạc dance… nhưng lại không chút ngần ngại thừa nhận rằng, chưa một lần xem các vở diễn sân khấu truyền thống”.