85,6% - 99,2% số dòng thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ
Trình bày Tờ trình của Chủ tịch nước về việc đề nghị Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa CHXHCN Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho biết: EVFTA gồm 17 Chương, 8 Phụ lục, 2 Nghị định thư, 2 Biên bản ghi nhớ và 4 Tuyên bố chung điều chỉnh nhiều vấn đề.
Với mức độ cam kết đạt được, EVFTA được coi là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên.
Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh. |
Phó Chủ tịch nước cũng nêu rõ, qua đánh giá tác động của Hiệp định đối với Việt Nam, bên cạnh những thuận lợi về chính trị, an ninh quốc gia và chiến lược đối ngoại, kinh tế, pháp luật, thể chế, lao động, việc làm, an sinh, xã hội; Hiệp định có thể mang lại một số thách thức nhất định.
Cụ thể: Việt Nam cam kết mở cửa thị trường với hàng hóa, dịch vụ cho EU, tạo ra sức ép cạnh tranh nhất định cho nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ của ta. Tuy nhiên, đây là sức ép cạnh tranh lành mạnh, có chọn lọc và theo lộ trình phù hợp.
Ngoài ra, EVFTA bao gồm những quy định, quy tắc chặt chẽ về thủ tục đầu tư, hải quan, thuận lợi hóa thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp kiểm dịch động, thực vật, sở hữu trí tuệ, mua sắm của Chính phủ, phát triển bền vững... để thực hiện đầy đủ các quy định này đòi hỏi cải cách hệ thống pháp lý của ta.
Việt Nam đã bảo lưu quyền áp dụng thuế xuất khẩu đối với 57 dòng thuế, trong đó có các sản phẩm quan trọng như dầu thô, than đá (trừ than để luyện cốc và than cốc là loại than ta hầu như không sản xuất).
Đối với các dòng thuế có thuế xuất khẩu hiện hành đang cao, Việt Nam cam kết đưa mức trần thuế xuất khẩu về 20% trong thời gian tối đa là 5 năm (riêng quặng măng-gan có mức trần 10%). Với các mặt hàng khác, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu theo lộ trình tối đa là 16 năm.
Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh nêu rõ, trên cơ sở đề nghị của Chính phủ với những nội dung nêu trên, căn cứ quy định tại khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Chủ tịch nước trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định phê chuẩn toàn văn Hiệp định EVFTA trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo thuyết minh EVFTA, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, về cơ bản, cắt giảm thuế nhập khẩu theo EVFTA được chia thành các nhóm: Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay: là nhóm hàng hóa mà thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ ngay khi EVFTA có hiệu lực; Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình; Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan; Nhóm hàng hóa không cam kết.
Về cam kết của EU đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cho biết, ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, EU cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 07 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Kiến nghị Quốc hội xem xét, phê chuẩn ngay tại Kỳ họp thứ 9
Trình bày Báo cáo thẩm tra về việc phê chuẩn EVFTA, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu nêu rõ: Đi cùng với những lợi ích, Hiệp định EVFTA cũng có một số thách thức. Chẳng hạn, EVFTA tạo ra sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ từ EU cho doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam; EVFTA bao gồm những quy định, quy tắc chặt chẽ về thủ tục đầu tư, hải quan, thuận lợi thương mại, các rào cản kỹ thuật trong thương mại, các biện pháp kiểm dịch động thực vật, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững…
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu. |
Một số ý kiến cho rằng báo cáo đánh giá tác động của Hiệp định được Chính phủ tiến hành vào cuối năm 2019 và đề nghị Chính phủ đánh giá thêm tác động của Hiệp định sau đại dịch Covid-19, đặc biệt là các khó khăn thách thức do đại dịch ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa xã hội, nhất là tăng trưởng GDP, thu ngân sách, cơ cấu ngành, thu hẹp thị trường, giảm việc làm.
Ngoài ra, Chính phủ cần dự báo xu hướng phát triển kinh tế quốc tế; đề ra các giải pháp xử lý để đảm bảo an ninh chính trị, an ninh kinh tế và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo báo cáo thuyết minh của Chính phủ, Hiệp định sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% (cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện), 4,57-5,30% (cho giai đoạn 05 năm tiếp theo) và 7,07-7,72% (cho giai đoạn 05 năm sau đó).
EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới và hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Mỹ). Thông qua Hiệp định này, Việt Nam có thể tiếp cận một thị trường tiềm năng với dân số hơn 500 triệu người, GDP khoảng 15.000 tỷ USD chiếm 22% GDP toàn cầu.
“Đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát danh mục các cam kết kiến nghị áp dụng trực tiếp đảm bảo đủ rõ, đủ chi tiết để áp dụng trực tiếp theo quy định của Luật Điều ước quốc tế năm 2016”, ông Giàu nói.
Căn cứ Tờ trình của Chủ tịch nước, Báo cáo thuyết minh của Chính phủ và các ý kiến thẩm tra, Ủy ban Đối ngoại kiến nghị Quốc hội xem xét, phê chuẩn Hiệp định EVFTA tại một kỳ họp và tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV; cho phép áp dụng Hiệp định này với Anh cho đến hết giai đoạn chuyển tiếp ngày 31/12/2020 và có thể gia hạn đến 24 tháng theo thỏa thuận giữa Anh và Liên minh châu Âu về việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu.
Đồng thời giao Chính phủ thúc đẩy đàm phán, ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương với Anh trên cơ sở Hiệp định EVFTA với những điều chỉnh phù hợp đảm bảo lợi ích cho cả hai bên để áp dụng thay thế cho Hiệp định EVFTA khi giai đoạn chuyển tiếp kết thúc, theo quy định của Luật Điều ước quốc tế năm 2016.