Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước được quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Điều 2 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC.
Thực tế có rất nhiều khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước được Tòa án tuyên kèm theo khoản lãi suất chậm thi hành án. Theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 12 thì khoản lãi suất chậm thi hành án thuộc diện được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu, nộp ngân sách nhà nước đủ điều kiện theo quy định tại Điều 61 Luật THADS thì có nhiều quan điểm khác nhau về việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án.
Có quan điểm cho rằng cần tính khoản lãi suất chậm thi hành án là một khoản riêng, độc lập với khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước để xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án theo quy định. Quan điểm khác lại cho rằng khoản lãi suất chậm thi hành án được tuyên kèm theo khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước nên khi xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án thì cần phải cộng gộp cả khoản lãi suất với khoản nghĩa vụ phải thi hành cho ngân sách nhà nước để tính. Chính vì chưa có hướng dẫn cụ thể trong Thông tư liên tịch số 12 khiến cho cơ quan THADS địa phương gặp nhiều lúng túng trong quá trình kiểm tra, rà soát các hồ sơ thi hành án đủ điều kiện xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS.
Không những thế, khoản tiền lãi suất chậm thi hành án nếu để trong một thời gian dài (chẳng hạn, 5 năm hoặc 10 năm) để đủ điều kiện xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án thì khoản tiền lãi suất nói trên là không nhỏ, thậm chí có trường hợp còn lớn hơn cả nghĩa vụ phải thi hành cho ngân sách nhà nước ban đầu. Do vậy, cơ quan THADS địa phương đề nghị phải có những quy định hoặc hướng dẫn cụ thể hơn từ phía các cơ quan có thẩm quyền nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc này trong quá trình xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.
Đồng thời, tại điểm a khoản 3 Điều 61 Luật THADS quy định về điều kiện tối thiểu để được xét giảm nghĩa vụ thi hành án là hết thời hạn 5 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10 - 100 triệu đồng. Như vậy, đối với trường hợp người phải thi hành đã đủ điều kiện về thời gian nhưng số tiền còn phải thi hành án từ 5 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng thì Luật THADS không quy định được giảm và cũng không có văn bản hướng dẫn nên rất khó có tính khả thi.
Trước vướng mắc khi xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS trong trường hợp tính lãi suất chậm thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước, Vụ Nghiệp vụ 2 (Tổng cục THADS) đồng tình cần hướng dẫn cụ thể hơn về việc có tính lãi suất chậm thi hành án vào khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước để xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án hay không. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người phải thi hành án cũng như thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù thì có thể cân nhắc, xem xét tách riêng 2 khoản nói trên để xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS.
Trong trường hợp vẫn quy định cộng gộp cả 2 khoản thì nếu khoản phải thi hành án dưới 5 triệu đồng thì xem xét cho phép miễn nghĩa vụ thi hành án khi đủ thời gian theo quy định mà không tính khoản lãi suất chậm thi hành án. Như vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 12 theo hướng trên để vừa tháo gỡ khó khăn cho cơ quan THADS địa phương, vừa đảm bảo quyền lợi cho những người có khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước dưới 5 triệu đồng nhưng lại không được xét miễn nghĩa vụ thi hành án.
Trước mắt, để khắc phục các khó khăn, vướng mắc nói trên, Tổng cục THADS sẽ nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn chung toàn quốc về việc tính lãi suất chậm thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước sau khi tham khảo ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan (như Bộ Tài chính, Bộ Công an, VKSNDTC, TANDTC…)