'Lời đáp trả' của Việt Nam với hành động phản bội của Pol Pot

(PLO) -Lời đáp trả đầu tiên của Việt Nam đối với hành động phản bội của Pol Pot là sự kiện quân đội Việt Nam tự vệ, đánh trả hành động xâm chiếm đảo Phú Quốc.
Một trong những bức ảnh tố cáo tội ác chế độ diệt chủng Pon Pot.
Một trong những bức ảnh tố cáo tội ác chế độ diệt chủng Pon Pot.

Tuy nhiên, hành động ấy chưa thấm gì với trận chiến giải phóng đảo Thổ Chu trong 4 ngày, sau hơn 3 tuần bị quân đội Pol Pot chiếm đóng trái phép. 

Quyết tâm

Quần đảo Thổ Chu hay có tên gọi là đảo Thổ Châu nằm ở phía Tây Nam nước ta, cách bờ trên 200km, gồm 8 đảo, trong đó Thổ Chu là đảo lớn nhất, rộng khoảng 10km2, các đảo còn lại có diện tích khoảng 1km2. 

Thực hiện mưu đồ tiêu diệt Việt Nam, ngày 10/5/1975, Khmer Đỏ dùng tàu đổ bộ LSM và 3 tàu tuần tra PCF đưa quân đánh chiếm đảo Thổ Chu, dồn hơn 500 người dân Việt Nam trên đảo đưa về Campuchia và tàn sát toàn bộ. Một số người dân trên đảo dùng xuồng máy chạy trốn vào bờ và báo tin cho chính quyền.

Không thể nhún nhường được nữa, Việt Nam quyết định dùng sức mạnh quân sự để chiếm lại đảo Thổ Chu. Đại tá Võ Hồng Thanh, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 (Trung đoàn 195, Quân khu 9), người chỉ huy lực lượng của Tiểu đoàn 410 tham gia trận đánh quân Pol Pot, giành lại đảo Thổ Chu kể: Qua mô tả của ngư dân, bước đầu Trung đoàn 195 nhận định, đây là quân Khmer Đỏ… 

Tám ngày sau khi Khmer Đỏ đánh chiếm đảo Thổ Chu, căn cứ hải quân An Thới, Phú Quốc mới được Quân khu 9 bàn giao cho Quân chủng Hải quân. Mặc dù còn khó khăn, nhưng với quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng mọi giá, Đoàn Hải quân Phú Quốc vẫn dốc toàn bộ lực lượng, phối hợp cùng bộ binh của Quân khu 9, tiến hành giành lại đảo Thổ Chu, trả nợ máu cho hàng trăm đồng bào bị quân Khmer Đỏ tàn sát.

Ngay sau đấy, các tàu thuyền của chế độ cũ được nhanh chóng sửa chữa để sẵn sàng tham gia chiến đấu. Cũng trong ngày 18/5/1975, hội nghị quân sự Phú Quốc đã hạ quyết tâm giành lại đảo Thổ Chu bằng sức mạnh quân sự.

Từ nhiều nguồn tin, nhất là theo mô tả của ngư dân trốn thoát, ta xác định trên đảo Thổ Chu có khoảng 1 tiểu đoàn địch được tăng cường hỏa lực mạnh, có 3 trọng liên 12,7mm, 3 súng cối 60, 81 và 82mm, 1 khẩu ĐKZ 75mm và 1 khẩu ĐKZ 106,7mm. Ở bãi Ngự phía tây nam đảo Thổ Chu có 1 trung đội địch, ở bãi Mun và bãi Giang phía Đông Nam đảo có 1 trung đội, ở bãi Cao và Hòn Từ có 2 trung đội.

19 giờ 35 phút ngày 23/5/1975, lực lượng tham gia chiến đấu tái chiếm đảo Thổ Chu đã tập hợp đội hình ở Bãi Cao Cát - chuẩn bị xuất phát đổ bộ. Hải quân Việt Nam tung vào trận 2 tàu vận tải (T-643 và T-657) của Đoàn 125, chở theo một phân đội đặc công 39 người, cùng với đó là 3 tàu tuần tiễu PCF (lượng giãn nước 16 tấn, trang bị trọng liên 12,7mm và súng cối 81mm).

Lực lượng đổ bộ là 2 đại đội (140 người) của tiểu đoàn bộ binh 410, Trung đoàn 95, Quân khu 9, cùng 1 trung đội địa phương (25 người) của đảo Phú Quốc và 11 cán bộ và dân địa phương đi cùng để dẫn đường. Lực lượng này được chở trên hai tàu đổ bộ cơ giới LCM-8 (lượng giãn nước 113 tấn, trang bị 2 trọng liên 12,7mm) của Rạch Giá.

Do các tàu PCF, tàu LCM-8 mới tiếp thu được của chế độ cũ, nên ta phải sử dụng lái tàu và pháo thủ của Hải quân Việt Nam Cộng hòa trước đây; trên mỗi tàu tuần tiễu PCF có 4 lính chế độ cũ và 3 chiến sĩ đặc công đi kèm. Theo kế hoạch, quân ta sẽ bí mật đổ bộ lên đảo, sau đó đồng loạt nổ súng tấn công các vị trí phòng ngự của quân Khmer Đỏ, dưới sự yểm hộ của hỏa lực trên tàu chiến.

21 giờ 15 phút, tàu vận tải T-643 bắt đầu tiến vào bờ biển phía đông bắc đảo Thổ Chu, đưa phân đội đặc công lên chiếm bãi đổ bộ. 15 phút sau, đặc công chiếm bãi đổ bộ  thành công, 2 tàu đổ bộ LCM-8 bắt đầu đưa bộ binh tiến vào.

Sau 45 phút, các phân đội bộ binh đổ bộ xong. Tuân thủ kế hoạch vạch ra, phân đội đặc công sẽ tiến công bãi Mun, Trung đội địa phương Phú Quốc sẽ chiếm bãi Giang, còn tiểu đoàn 410 sẽ giải quyết hai mục tiêu là bãi Ngự và bãi Nhất.

3 giờ 45 phút sáng 24/5/1975, Sở Chỉ huy lệnh cho 2 tàu đổ bộ LCM-8 ở lại cảnh giới phía bắc đảo Thổ Chu, cách bãi đổ bộ chừng 1 hải lý. 3 tàu tuần tiễu PCF vòng qua hướng tây, dừng lại ở Hòn Khô, sẵn sàng chi viện cho mũi tiến công bãi Ngự; 2 tàu vận tải quân sự vòng qua hòn Cao Cát sang phía Đông Nam.

Khai hỏa

5 giờ 15 phút sáng 24/5/1975, tiểu đoàn 410 nổ súng đánh chiếm bãi Ngự. Các mũi khác cũng đồng loạt nổ súng theo hợp đồng. Ba tàu tuần tiễu PCF tiến vào trước bãi Ngự, dùng hỏa lực trên tàu chi viện cho bộ binh tiến công địch. Từ trên bờ, quân Khmer Đỏ bắn trả tàu hải quân ta bằng súng cối và ĐKZ, song hỏa lực không mạnh.

Ngay từ những phút đầu trận đánh, phân đội đặc công đã làm chủ bãi Mun. Đến 7 giờ sáng, trung đội địa phương đảo Phú Quốc cũng đã làm chủ được một phần bãi Đông, buộc địch phải co cụm trong công sự chống trả.

Đại tá Võ Hồng Thanh, người chỉ huy Tiểu đoàn 410 của Quân khu 9 kể lại: “4 giờ, nhìn thấy nóc nhà dân dưới ánh sáng lờ mờ, xác định đúng khu vực Bãi Ngự nên khẩn trương triển khai đội hình theo phương án đã thống nhất.

Tuy nhiên khoảng 30 phút tiếp cận, tên lính gác của địch phát hiện hướng tiến quân của Đại đội 1 và nổ súng trước. Ta bị động, nhưng nhờ hiệp đồng chặt chẽ nên đã nhanh chóng xoay chuyển được tình thế: Đồng loạt nổ súng tiến công vào sào huyệt, lập tức đưa ta từ chỗ bị động sang chủ động. Còn địch thì ngược lại, bị tấn công bất ngờ chúng tháo chạy náo loạn…”

7 giờ 15 phút sáng, hai tàu LCM-8 cảnh giới ở phía bắc đảo phát hiện thấy một tàu lạ tiến tới. Lập tức, 3 tàu tuần tiễu PCF được lệnh vòng lên phía bắc để kiểm tra, nắm tình hình, sẵn sàng đánh địch.

Từ hướng đông nam, tàu T-643 cũng chở theo một tổ đặc công đến chi viện. 3 tàu PCF tăng tốc tiếp cận và báo cáo: Trên tàu lạ có nhiều người, có vũ khí và treo cờ đỏ. Hải quân ta lập tức tổ chức vây bắt. Dưới sự yểm hộ của đồng đội, tàu T-643 và một tàu LCM-8 cập sát tàu lạ, bắt sống tàu cùng 40 tên địch.

Tàu T-657 tiến về bãi Đông cũng phát hiện một thuyền máy của địch đi từ hòn Từ sang, lập tức nổ súng tiêu diệt. Đến 8 giờ 30 phút sáng, quân ta làm chủ bãi Đông. Nhưng cuộc chiến đấu vẫn diễn ra rất quyết liệt ở bãi Ngự trong suốt buổi sáng 24/5/1975. Quân địch dựa vào hai điểm tựa ở phía bắc và phía đông nam bãi Ngự để chống trả bộ đội ta.

14 giờ 30 phút chiều, tàu T-643 và 3 tàu tuần tiễu PCF bắt đầu nổ súng chi viện hỏa lực cho tiểu đoàn 410 trên bãi Ngự. Quân địch vẫn ngoan cố bắn trả tàu ta bằng súng cối và ĐKZ.

Đến 16 giờ chiều, để nhanh chóng giải quyết trận đánh, Sở Chỉ huy tăng viện thêm cho lực lượng tái chiếm đảo 2 tàu tuần tiễu K-62 (lượng giãn nước 135 tấn, trang bị 2 pháo 37mm 2 nòng và 2 pháo 25mm 2 nòng). Tàu T-657 lập tức đi đón hai tàu tuần tiễu.

9 giờ sáng 25/5/1975, quân ta tiếp tục tấn công bãi Ngự, lúc này, hỏa lực yểm hộ bộ binh mạnh lên rõ rệt. Hải quân ta kiên quyết dùng pháo 37mm khống chế cao điểm Đông Nam bãi Ngự, và dùng 25mm bắn bộ binh địch.

Ông Thanh kể, sau hỏa lực chuẩn bị, ta quyết định dùng loa gọi hàng. Hơn chục phút, địch từ các khe trên đỉnh núi mang vũ khí xuống đầu hàng, ta bắt giữ được 105 tên. Qua khai thác, chúng khai còn 2 trung đội đóng ở Hòn Cao và Hòn Từ.

Ta tiếp tục tuyên truyền vận động, 5 tên địch có uy tín đồng ý qua Hòn Cao, Hòn Từ kêu gọi tàn quân còn lại ra hàng. Đến 12 giờ trưa, điểm tựa phía đông nam cũng bị hạ, 56 tên địch ra hàng. 18 tên khác chạy ra bãi Mun cũng đã phải đầu hàng bộ đội đặc công ta ở đây. Quân ta giành lại đảo Thổ Chu, và sau đó triển khai đánh chiếm nốt các đảo còn lại. 

Đến ngày 27/5/1975, trận đánh giành lại các đảo trên quần đảo Thổ Chu kết thúc thắng lợi, Hải quân Nhân dân Việt Nam và Quân khu 9 đã loại khỏi vòng chiến 1 tiểu đoàn tăng cường của địch, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và trang thiết bị.

Phía ta có 4 đồng chí hy sinh và 14 đồng chí bị thương. Tuy nhiên, ngư dân còn lại trên đảo rất ít, họ cho biết, trước đó, bọn Pol Pot đã lùa hơn 500 ngư dân Việt Nam xuống tàu và chở đi đâu không rõ.

Sau này, qua điều tra, xác minh từ các nguồn tin, manh mối của vụ thảm sát kinh hoàng chỉ được hé lộ vào đầu năm 1979, khi quân đội cách mạng Campuchia và quân tình nguyện Việt Nam giải phóng một số hòn đảo trên vịnh Thái Lan thuộc lãnh thổ Campuchia, tại một hòn đảo, họ đã tìm thấy rất nhiều xương cốt, quần áo, cũng như căn cước đề tên của người dân Việt Nam do chế độ cũ cấp, kèm một số vật dụng đặc trưng khác của ngư dân.

Chứng cứ này khẳng định, quân Khmer Đỏ đã thủ tiêu những ngư dân Việt Nam tại đây, trong đó có cả hơn 500 ngư dân của Thổ Chu…

Đọc thêm