Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
“Lời kêu gọi toàn quốc káng chiến” |
“Cây muốn lặng, gió chẳng đừng”
Lúc đó, nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam bộ và Nam Trung bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người ký với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam.
Sau đó, Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp Tạm ước 14/9/1946. Ngày 16/9/1946, Người rời cảng Tulông (Pháp) trở về nước. Ngày 16/10, Người gặp Đácgiăngliơ ở Vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14/9 không được thực hiện ở Nam bộ. Tại Bắc bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23/11/1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.
Trước tình hình đó, ngày 18, 19/12/1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Nội), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Từ ngày 3 đến 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Nội) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, ngày 19/12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
20 giờ ngày 19/12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20/12 tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy là mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược.
“Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Vùng lên chiến đấu
“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Khi đã buộc phải kháng chiến thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Sau bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là độc lập tự do hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy, có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.
“Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Trong Lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói, nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở hai chữ “toàn dân”. Đây được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”.
Mốc son chói lọi
Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, lực lượng vũ trang Nam Định đã bao vây giam giữ 800 quân Pháp trong nhà máy sợi gần ba tháng; ta đã đánh phá giao thông quyết liệt ở đường số 5; ở thị xã Vinh ngay từ đêm nổ súng quân Pháp đã phải hàng quân ta; ở Huế, sau 50 ngày vây đánh, ta đã diệt gần 200 tên Pháp; ở Đà Nẵng, mặc dù quân Pháp gần 1 vạn tên nhưng ta cũng đã hoàn thành nhiệm vụ bao vây; ở Hà Nội, trong hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khó khăn và chênh lệch về vũ khí, Trung đoàn Thủ đô mãi đêm 17/2/1947 mới rút ra khỏi nội thành, sau 60 ngày đêm chiến đấu ngoan cường trong lòng thành phố đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bao vây, tiêu diệt địch, tạo thời gian cần thiết để di chuyển các cơ quan, công xưởng lên vùng chiến khu, vượt trước thời gian so với lời hứa của Bộ trưởng Quốc phòng với Bác Hồ gần một tháng.
Hơn nửa thế kỷ đi qua, ngày 19/12/1946 mãi mãi ghi vào lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta như một mốc son chói lọi. Toàn dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy theo tiếng gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Bằng cuộc tiến công tối 19/12/1946, mở đầu theo lệnh từ Hà Nội, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực hiện nguyên tắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam: Không để cho kẻ địch đánh theo cách đánh của chúng, mà buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Nguyên tắc đó đã chỉ đạo quân dân ta suốt 30 năm chiến tranh giải phóng.