Nghị quyết số 24-NQ/TW về biến đổi khí hậu: Một thập kỷ hoàn thiện hành lang pháp lý

(PLVN) -Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương được ban hành ngày 03/6/2013 tại Hội nghị lần thứ 7 khóa XI trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết đã đề ra những quyết sách lớn trong ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở nước ta.
 Là một quốc gia nông nghiệp, chủ động ứng phó với BĐKH là một trong những quyết sách lớn của đất nước. (Nguồn: Laurent Weyl/The Conversation)
Là một quốc gia nông nghiệp, chủ động ứng phó với BĐKH là một trong những quyết sách lớn của đất nước. (Nguồn: Laurent Weyl/The Conversation)

Nâng tầm hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu

Từ khi Nghị quyết được ban hành đến nay, bối cảnh thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi, biến đổi khí hậu (BĐKH), ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên vẫn tiếp diễn. Thỏa thuận Paris về BĐKH được thông qua với những ràng buộc mạnh mẽ hơn về ứng phó với BĐKH trên toàn thế giới. Các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số được ứng dụng trong quản lý tài nguyên và môi trường.

Sau Nghị quyết số 24-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW; Nghị quyết 06/NQ-CP ngày 21/01/2021 về Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW theo Kết luận 56-KL/TW. Các bộ, ngành tích cực triển khai các nhiệm vụ, giải pháp; các địa phương quán triệt sâu sắc và đồng lòng triển khai các chủ trương, định hướng của Đảng. Với sự vào cuộc của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, thể chế, cơ chế, chính sách pháp luật được hoàn thiện, tổ chức bộ máy được kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong ứng phó với BĐKH; khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế.

Đặc biệt, trước xu hướng tất yếu của thế giới về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam tiếp tục chủ trương phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn với công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ cần phải chủ động ứng phó hiệu quả với BĐKH, phát triển kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Trải qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, đến nay các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết được thể chế hóa trong quá trình xây dựng và ban hành các luật và văn bản dưới luật, như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khí tượng thủy văn và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành đã tạo lập được hành lang pháp lý bao quát về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn và phát triển thị trường carbon, góp phần thúc đẩy mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp.... Lĩnh vực khí tượng thuỷ văn ban hành 01 Nghị định, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 Thông tư; lĩnh vực BĐKH đã ban hành 03 Nghị định, 04 Nghị quyết của Chính phủ, 08 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 03 Thông tư.

Các hoạt động hội nhập, hợp tác quốc tế về BĐKH đã được nâng lên một tầm mới. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm, thực chất và hiệu quả các điều ước quốc tế về BĐKH toàn cầu. Từ 2013 đến nay, Việt Nam đã tham gia 11 Điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả COP26, Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến 2050, Kế hoạch hành động giảm phát thải khí methane đến năm 2030, Đóng góp do quốc gia quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp quốc về BĐKH; thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP)...

Theo Báo cáo tóm tắt đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, Cục trưởng Cục BĐKH Tăng Thế Cường cho biết, các mục tiêu ứng phó với BĐKH được Nghị quyết 24-NQ/TW đề ra đều đạt và có những chỉ tiêu đạt vượt mức đề ra. Đơn cử, nội dung giảm phát thải khí nhà kính đã được luật hóa để triển khai thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục các lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Chỉ tiêu giảm mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP đã đạt vượt mức đề ra giảm từ 8 - 10% so với năm 2010, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ đạt mục tiêu kép phát triển kinh tế đi đôi với giảm phát thải khí nhà kính. Đề án phát triển thị trường carbon trong nước đã được xây dựng; trao đổi tín chỉ carbon quốc tế theo Cơ chế phát triển sạch (CDM); Cơ chế tín chỉ chung hợp tác Việt Nam - Nhật Bản (JCM) được triển khai...

Bên cạnh đó, năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát BĐKH đã được nâng cao. Kịch bản BĐKH được cập nhật định kỳ vào năm 2016 và 2020; xây dựng bản đồ ngập lụt, làm cơ sở cho các địa phương triển khai các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng với BĐKH. Thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra đã giảm đáng kể, trong đó giai đoạn 2018 - 2022 giảm 18% về người, 34% về vật chất so với giai đoạn 2013 - 2017.

Khắc phục tồn tại, hướng tới thập kỷ tiếp theo

Diễn biến khí hậu, thiên tai ngày càng cực đoan hơn tại nhiều địa phương trên cả nước. (Nguồn: VGP)

Diễn biến khí hậu, thiên tai ngày càng cực đoan hơn tại nhiều địa phương trên cả nước. (Nguồn: VGP)

Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần nhìn nhận những tồn tại, hạn chế để rút kinh nghiệm, bài học cho giai đoạn tiếp theo. Tại Hội thảo tham vấn khu vực miền Bắc về Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW vào tháng 8/2023, Cục trưởng Cục BĐKH TS Tăng Thế Cường đã nêu ra một số bất cập đáng quan tâm. Có thể kể đến việc triển khai các quy định ứng phó với BĐKH còn chưa được triển khai mạnh mẽ ở địa phương. Chưa có các cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với BĐKH. Công tác tuyên truyền, giáo dục về ứng phó với BĐKH mặc dù đã được đẩy mạnh nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi xanh và giảm phát thải khí nhà kính.

Bên cạnh đó, công tác giảm nhẹ phát thải khí nhà kính mới chỉ tập trung ở cấp Trung ương thông qua việc xây dựng, ban hành chính sách của các bộ, ngành. Chưa phát huy vai trò của chính quyền địa phương trong việc quản lý, thúc đẩy các biện pháp, hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trên địa bàn. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hoạt động phát thải khí nhà kính chưa được thực hiện đầy đủ và phủ rộng…

Với lĩnh vực khí tượng thuỷ văn, TS. Hoàng Đức Cường, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra một số tồn tại cần khắc phục như: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện, chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, mạng lưới quan trắc khí tượng thuỷ văn quốc gia nhìn chung thưa, đặc biệt trên biển, công nghệ quan trắc tự động chưa được trang bị nhiều; chưa kịp thời khắc phục, sửa chữa, thay thế linh kiện. Cơ sở vật chất và trang thiết bị quan trắc khí tượng thuỷ văn mặc dù đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng tình hình thực tế; công tác dự báo, cảnh báo đối với một số loại hình thiên tai xảy ra trong thời gian rất ngắn, phạm vi hẹp như mưa lớn cục bộ, lốc, sét, mưa đá, lũ quét, sạt lở đất còn hạn chế.

Trong thập kỷ hiện tại, BĐKH đã trở thành xu thế không thể đảo ngược, là thách thức lớn nhất đối với nhân loại, do đó ứng phó với BĐKH cần phải được đặt vào trung tâm của các quyết định phát triển. Mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải chủ động thích ứng nhằm hạn chế các tác động tiêu cực, đồng thời có trách nhiệm giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết quốc tế. Trong bối cảnh đó, công tác ứng phó với BĐKH ở nước ta cũng hiện đang chuyển sang một giai đoạn mới; theo đó các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp trong thời kỳ mới cần được đề ra hướng tới thực hiện mục tiêu chung toàn cầu, đồng thời đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn phát triển của đất nước.

Đáng chú ý, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với BĐKH nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng để phát triển ĐBSCL bền vững, thịnh vượng theo hướng tôn trọng quy luật tự nhiên; coi nước mặn, nước lợ là nguồn tài nguyên cho phát triển; xoay trục chiến lược sang thủy sản - trái cây - lúa gạo... Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 đã được phê duyệt và triển khai thực hiện. Hầu hết các địa phương đã ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH, Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của địa phương. Các thành phố, đô thị lớn ven biển đều chủ động đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp thiết thực nhằm phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn.

Đọc thêm