Khoản 1, 2 điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc chia tài sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết như sau:
Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Theo thông tin cung cấp, bà nội bạn mất không để lại di chúc. Như vậy, nếu tài sản bà nội để lại là tài sản chung của ông bà nội bạn thì tài sản này sẽ được chia theo pháp luật. Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hàng thừa kế như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như vậy, việc ông nội bạn đòi giành hết hai mảnh đất là tài sản chung giữa ông bà và việc công an xã tiến hành cưỡng chế đất trong trường hợp này là trái với quy định của pháp luật. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình, bạn có thể làm đơn gửi lên Tòa án để yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật.