Nhận biết triệu chứng COVID-19 thể nhẹ và trung bình

0:00 / 0:00
0:00
Bệnh viện Đa khoa Xanh pôn đưa ra thông tin tham khảo về cách nhận biết triệu chứng nhẹ và trung bình khi mắc COVID - 19 để có thể chẩn đoán phát hiện sớm, nhằm xử trí, can thiệp kịp thời, tránh nguy cơ người bệnh bị biến chứng nghiêm trọng...

Các triệu chứng và thể bệnh của COVID-19

Các triệu chứng điển hình khi nhiễm COVID-19 là sốt, ho và mệt mỏi. Một số triệu chứng khác có thể bao gồm: hụt hơi, mất mùi hoặc vị, đau nhức cơ thể, đau đầu, đau họng, chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi. Các triệu chứng tiêu hóa như buồn nôn, nôn mửa hoặc tiêu chảy.

Theo một kết quả nghiên cứu ở Mỹ, thứ tự xuất hiện triệu chứng ở bệnh nhân là sốt, ho, buồn nôn hoặc nôn mửa, tiêu chảy. Các bệnh nhân được lọc ra, chia thành hai loại là bệnh nặng và không nặng, thứ tự xuất hiện triệu chứng giống nhau giữa những người bệnh nặng và không nghiêm trọng.

Các trường hợp mắc COVID-19 được phân loại mức độ nhẹ, trung bình và nặng. Viện Y tế Quốc gia Mỹ (NIH) hướng dẫn về các mức độ bệnh như sau:

Bệnh nhẹ khi có bất kỳ một triệu chứng nào đó của COVID-19, ngoại trừ triệu chứng thở gấp và khó thở.

Bệnh trung bình khi có triệu chứng bệnh ở đường hô hấp dưới như viêm phổi, nhưng nồng độ oxy trong máu vẫn ở mức 94% hoặc cao hơn.

Bệnh nặng khi có biểu hiện nhịp thở cao, có dấu hiệu bệnh phổi nặng, nồng độ oxy trong máu thấp hơn 94%.

Người mắc COVID-19 bị bệnh ở mức độ nhẹ và trung bình có thể tự phục hồi ở tại nhà.

"Điều quan trọng là mặc dù bị bệnh nhẹ và trung bình nhưng phải tiếp tục theo dõi các triệu chứng cho đến khi được phục hồi. Lưu ý rằng lúc đầu có thể có các triệu chứng nhẹ, nhưng sau đó có thể sẽ trở nên nặng hơn, dẫn đến bệnh nghiêm trọng", Bệnh viện Xanh Pôn khuyến cáo.

Nhiễm trùng không triệu chứng

Thực tế, một số người bị nhiễm chủng mới của COVID-19, nhưng không có biểu hiện bất kỳ một triệu chứng nào. Trường hợp này được gọi là bệnh nhiễm trùng không triệu chứng. Những người mắc COVID-19 không có triệu chứng thì không phải lúc nào cũng được kiểm tra, nên không biết thực trạng người bệnh nhiễm trùng không triệu chứng chiếm tỷ lệ là bao nhiêu trong cộng đồng.

Người không có triệu chứng bệnh nên không biết rằng mình đã bị nhiễm vi rút, tuy vậy họ vẫn có khả năng lây nhiễm vi rút sang cho người khác. Đó là lý do tại sao phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa như mang khẩu trang khi tiếp xúc với những người ở bên ngoài gia đình của mình, rửa tay thường xuyên, giãn cách mức độ cần thiết, thường xuyên làm sạch và khử trùng các bề mặt tiếp xúc ở trong nhà...

Triệu chứng mất khứu giác và vị giác

Một triệu chứng tiềm ẩn của COVID-19 là mất khứu giác và vị giác. Triệu chứng mất mùi và mất vị cũng có liên quan đến các trường hợp nhiễm COVID-19 nhẹ. Triệu chứng này thường biến mất ở 95% các trường hợp mắc bệnh trong vòng 6 tháng. Có trường hợp chỉ có triệu chứng nghẹt mũi, không có dấu hiệu gì khác ngoài biểu hiện dị ứng. Sau đó đã đi khám kiểm tra và thử nghiệm nhanh cho kết quả dương tính với COVID-19.

Triệu chứng mất khứu giác và vị giác thường xảy ra ở phụ nữ và trẻ em nhiều hơn. Triệu chứng này có thể xảy ra mà không kèm sổ mũi, nghẹt mũi. Triệu chứng mất khứu giác và vị giác có thể xuất hiện trước các triệu chứng khác của COVID-19.

Mắc bệnh nhưng không sốt

Sốt là một trong những triệu chứng phổ biến khi mắc COVID-19. Nhưng cũng có các trường hợp bị mắc bệnh nhưng khộng sốt. Các nhà khoa học lưu ý những người lớn tuổi có nhiệt độ cơ thể bình thường thấp hơn so với những người trẻ tuổi, do đó nhiệt độ sốt cũng có thể thấp hơn. Điều này là làm cho việc xác định triệu chứng sốt ở nhóm tuổi này cũng gặp khó khăn. Một người bệnh đã nói với bác sĩ là chưa bao giờ bị sốt và ho. Triệu chứng bệnh chỉ bắt đầu với dấu hiệu đau vòm miệng, chảy nước mũi sau và hắt hơi kéo dài một ngày. Sau đó khứu giác suy giảm nhanh chóng, thậm chí không thể ngủi thấy mùi hôi thối của chất cặn bã thải ra.

Mắc bệnh nhưng không ho

Giống như triệu chứng sốt, ho cũng là một triệu chứng thường gặp khi mắc COVID-19. Các nhà khoa học ghi nhận phần lớn những người mắc bệnh có triệu chứng ho khan khá phổ biến, triệu chứng ho ướt hay ho có đờm cũng có thể xảy ra. Tuy vậy cũng có trường hợp không bị ho.

Tiến triển bệnh lý của COVID-19

Khi mắc COVID-19, các triệu chứng bệnh có thể tiến triển với khả năng chuyển từ thể bệnh nhẹ hoặc thể bệnh trung bình sang thể bệnh nặng. Tình trạng này thường xảy ra khoảng một tuần sau khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện lần đầu tiên và có thể sớm hơn hay muộn hơn. Các nhà khoa học đã phân tích sự tiến triển của những người mắc COVID-19 ghi nhận khung thời gian từ khi bắt đầu có triệu chứng thông thường đến khi có triệu chứng khó thở khoảng 5 đến 8 ngày. Ở những người bị bệnh nặng, thời gian từ khi bắt đầu xuất hiện các triệu chứng cho đến khi nhập viện để được điều trị tại phòng chăm sóc đặc biệt ICU (Intensive Care Unit ) khoảng 9,5 đến 12 ngày.

Thời gian phục hồi sau khi bị mắc COVID-19 thể nặng và nghiêm trọng là bao lâu, hiện chưa được xác định rõ, vì thời gian này có thể khác nhau ở từng người. Kết quả phục hồi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm tuổi tác và sự hiện diện của các vấn đề về sức khỏe tiềm ẩn khác. Đối với trường hợp mắc COVID-19 thể nhẹ hoặc trung bình kéo dài bao lâu cũng tương tự, vì phần lớn các nghiên cứu về bệnh chỉ tập trung vào những bệnh nặng, do đó ít có thông tin về thời gian tiến triển chính xác ở các bệnh thể bênh này. Một nghiên cứu vào tháng 7/2020 tập trung khảo sát ở những bệnh nhân mắc COVID-19 thể bệnh nhẹ và trung bình ghi nhận các đối tượng này có ít nhất một triệu chứng trong thời gian trung bình 9,82 ngày.

Trường hợp dai dẳng kéo dài

Trên thực tế, một số người mắc COVID-19 bất kể ở mức độ bệnh nặng và nghiêm trọng hay không vẫn có thể gặp các triệu chứng dai dẳng kéo dài trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi các triệu chứng cấp tính qua đi. Các dấu hiệu biểu hiện được ghi nhận trong những trường hợp này là mệt mỏi, hụt hơi, đau khớp xương, đau ngực hoặc đánh trống ngực, bị nhầm lẫn hoặc có dấu chứng sương mù não...

Khi nào thì nên đi xét nghiệm phát hiện bệnh?

Các nhà khoa học khuyến cáo bất cứ những ai có bất kỳ một triệu chứng nào của COVID-19 đều phải nên đi xét nghiệm phát hiện bệnh, ngay cả khi có các triệu chứng nhẹ. Một số các trường hợp khác cũng phải được xét nghiệm phát hiện bệnh theo khuyến cáo gồm:

Người có quan hệ tiếp xúc gần với người đã chẩn đoán xác định mắc COVID-19. Điều này có nghĩa là người đã tiếp xúc gần với những người mang mầm bệnh trong khoảng cách 2 mét trong vòng 15 phút hoặc lâu hơn với khoảng thời gian 24 giờ.

Người có rủi ro cao khi có các hoạt động, sinh hoạt có nguy cơ mắc bệnh COVID-19 hoặc mầm bệnh SARS-CoV-2 qua sự tiếp xúc. Những trường hợp người đi du lịch hoặc đi đến nơi tụ tập đông người... cần phải kiểm tra và thực hiện xét nghiệm phát hiện bệnh.

Người cần phải xét nghiệm theo yêu cầu của các sơ sở y tế hay cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, như những trường hợp trước khi thực hiện phẫu thuật hoặc thủ thuật để phát hiện bệnh.

Một vấn đề cần lưu ý là sau thực hiện xét nghiệm để phát hiện bệnh, người chờ nhận kết quả xét nghiệm cần phải cách ly tại nhà cho đến khi có kết quả được thông báo. Bởi người xét nghiệm bị nhiễm vi rút gây bệnh thì có khả năng lây lan cho người khác trong khi chờ kết quả.

Dấu hiệu cần phải được chăm sóc y tế

Đối với một số trường hợp, COVID-19 thể nhẹ và trung bình có thể tiến triển thành bệnh nặng và khá nghiêm trọng. Các dấu hiệu cần cảnh báo và lưu ý gồm: khó thở, triệu chứng đau và tăng áp lực trong ngực không biến mất, da mặt và niêm mạc môi xanh tái, bị hoang mang, lú lẫn...

Theo Hiệp hội Phổi (Mỹ), mức độ bão hòa oxy bình thường từ 95 đến 97%, nếu dưới mức độ này có thể là dấu hiệu hệ hô hấp đang gặp sự khó khăn trong việc cung cấp khí oxy cho các cơ quan và mô tế bào trong cơ thể. Bên cạnh đó cần phải theo dõi kỹ càng các triệu chứng khác như tình trạng ho, khó thở và đau ngực.

Đọc thêm