Nhân đề xuất chính sách hỗ trợ Covid-19 mới, nhìn lại toàn cảnh các gói hỗ trợ đợt 1

(PLVN) - Nhằm tiếp tục hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch Covid-19, trên cơ sở của các chính sách và thực thi gói hỗ trợ lần 1, Chính phủ đang tính toán các chính sách hỗ trợ mới…
Trong 4 gói hỗ trợ, gói tiền tệ - tín dụng được đánh giá là khả quan.
Trong 4 gói hỗ trợ, gói tiền tệ - tín dụng được đánh giá là khả quan.

Trong báo cáo cập nhật về chính sách hỗ trợ của các nước trong bối cảnh khó khăn hiện nay cùng những kiến nghị đối với Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về các chính sách hỗ trợ đến thời điểm hiện nay của Chính phủ.

Theo đó, đến nay, Chính phủ Việt Nam đã có 4 gói hỗ trợ (tổng giá trị thực - tức là tổng chi phí mà Chính phủ và hệ thống các TCTD cam kết bỏ ra ước tính khoảng 181,4 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 3% GDP năm 2019), bao gồm: Gói hỗ trợ tài khóa; Gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng; Gói hỗ trợ an sinh xã hội: Và các gói hỗ trợ khác.

Gói hỗ trợ tài khóa với giá trị ước tính 73,1 nghìn tỷ đồng (1,2% GDP) theo Nghị quyết 41 (tháng 4/2020): Gồm các biện pháp cho phép miễn, giảm thuế, phí, lệ phí (khoảng 69,3 nghìn tỷ đồng) và gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất (khoảng 180 nghìn tỷ đồng trong 5 tháng). Tổng số tiền đã thực hiện tính đến ngày 31/7/2020 khoảng 56.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 31,2% quy mô gói hỗ trợ.

Theo nhóm nghiên cứu, nguyên nhân tiếp cận hỗ trợ còn chậm là do các DN kinh doanh thua lỗ, không có doanh thu, hoạt động cầm chừng; một số DN đã nộp tiền thuế thu nhập DN năm 2019 ngay trong quý I/2020; một số DN đã trả tiền thuê đất từ đầu năm nên số tiền còn phải nộp không nhiều hoặc không có nhu cầu giãn, hoãn; Cùng với đó là tâm lý e ngại thủ tục rườm rà nên cũng không mặn mà với gói hỗ trợ này.

Gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng giá trị ước tính 36,6 nghìn tỷ đồng (0,6% GDP), bao gồm: Phần giảm lãi suất khi các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay mới với lãi suất ưu đãi (giảm 1-2,5%/năm so với thông thường) với quy mô cam kết khoảng 600 nghìn tỷ đồng; Các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà vẫn giữ nguyên nhóm nợ (không tính lãi phạt); Miễn, giảm lãi (giảm 0,5-1,5% cho các khoản vay hiện hữu bị ảnh hưởng); Miễn, giảm phí, nhất là phí thanh toán và một số phí dịch vụ khác...

Các khoản hỗ trợ này dẫn đến giảm lợi nhuận trước thuế (giảm 20-25%) cả năm 2020 của các TCTD và giảm thu ngân sách tương ứng. Song song với đó, NHNN cũng đã 2 lần giảm các lãi suất điều hành, giúp các TCTD có điều kiện giảm lãi suất. Theo NHNN, đến ngày 13/7/2020, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho hơn 272.000 khách hàng với dư nợ hơn 210 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 435.000 khách hàng với dư nợ hơn 1,27 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế đạt 1,17 triệu tỷ đồng cho hơn 247.000 khách hàng.

Với gói an sinh - xã hội, theo Nhóm nghiên cứu, thực tế gói này có giá trị khoảng 45,8 nghìn tỷ đồng (0,8% GDP), chứ không phải 62 nghìn tỷ đồng (do chi phí của gói hỗ trợ cho vay trả lương về bản chất chỉ là phần tiền lãi không tính do lãi suất là 0% khoảng 390 tỷ đồng); đến hạn, DN vẫn phải trả lại phần tiền gốc đã vay. Tính đến ngày 13/7/2020, đã thực hiện giải ngân khoảng 12 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ 11,5 triệu người và 12.000 hộ kinh doanh. 

Nhìn chung, công tác chi trả về cơ bản đã đảm bảo đúng đối tượng, song tiến độ còn rất chậm, trong đó, gói 16.000 tỷ đồng cho vay hỗ trợ trả lương chưa giải ngân được do: Điều kiện đặt ra còn chưa phù hợp, chưa sát thực tiễn; Quy trình, thủ tục còn phức tạp, xử lý lâu khiến nhiều DN e ngại; Ngoài ra, nhiều DN tự xoay sở.

Các gói hỗ trợ khác với tổng giá trị 26 nghìn tỷ đồng (0,43% GDP), bao gồm gói hỗ trợ giảm 10% giá điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trị giá 10.900 tỷ đồng và gói hỗ trợ giảm giá dịch vụ viễn thông trị giá trị 15.000 tỷ đồng. Đến hết ngày 30/6/2020, EVN đã giảm giá, giảm tiền điện cho 26,79 triệu khách hàng với tổng số tiền 6.800 tỷ đồng (62,4%). Đối với gói giảm giá dịch vụ viễn thông, hiện chưa có thông tin công bố kết quả thực hiện cụ thể. “Có thể thấy trong 4 gói hỗ trợ, thì gói tiền tệ - tín dụng và giảm tiền điện đạt kết quả khả quan, còn lại rất chậm và còn vướng mắc, cần sớm khắc phục…” - TS Cấn Văn Lực đánh giá. 

Quy mô gói hỗ trợ Covid-19 ở các nước 

Theo Báo cáo của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, các nền kinh tế lớn như Đức, Nhật Bản, Anh, Mỹ, Canada... đều liên tiếp công bố các gói hỗ trợ với quy mô trung bình tương đương 18% GDP. Tại châu Á, các quốc gia cũng đã có các gói hỗ trợ với quy mô nhỏ hơn như: Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Malaysia khoảng 10-14% GDP; Trung Quốc (6,5% GDP); Việt Nam, Philippines, Indonesia có quy mô chỉ ở mức từ 1,5-6% GDP (theo IMF, McKinsey và tác giả tổng hợp).

Các gói tài khóa nhìn chung tập trung vào 9 mục đích chính: Đầu tư nghiên cứu, sản xuất vaccine và thiết bị y tế; Trợ cấp người lao động phải tạm nghỉ việc hoặc thất nghiệp; Chia tiền mặt cho người dân thu nhập trung bình và thấp; Cho vay lãi suất thấp đối với DN nhỏ và vừa và DN kiệt quệ tài chính, khó khăn thanh khoản; Cho vay, bảo lãnh vay vốn hoặc mua lại cổ phần các công ty; Cho phép giãn, hoãn nộp thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất, BHXH;  Giảm thuế thu nhập DN và thuế thu nhập cá nhân; Kích cầu tiêu dùng, du lịch và hỗ trợ xuất khẩu; Có riêng gói an sinh xã hội.

Đọc thêm