Cảnh báo từ nhiều thị trường
Tại Hội nghị “Tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói” vừa diễn ra tại Lạng Sơn, Cục Bảo vệ thức vật (BVTV) - Bộ NN&PTNT cho biết, cả nước hiện có 6.883 mã số vùng trồng và 1.588 mã số cơ sở đóng gói nông sản được cấp. Các mã số này tập trung chủ yếu vào các sản phẩm xuất khẩu (XK) chính như xoài, thanh long, nhãn, lúa, sầu riêng. Thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Newzealand và Úc là những thị trường có số lượng mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói nhiều nhất. Đặc biệt, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là vùng dẫn đầu về số lượng mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Tuy nhiên, gần đây Cục BVTV liên tục nhận được thông báo của nước nhập khẩu (NK) liên quan đến việc không tuân thủ các yêu cầu về kiểm dịch thực vật (bao gồm các sản phẩm chuối, xoài, sầu riêng, mít, thanh long, nhãn… XK vào thị trường Trung Quốc) và có dư lượng hóa chất vượt quá quy định (sầu riêng, chôm chôm, ớt XK sang Đức, Pháp, Tây Ban Nha hay ớt đông lạnh XK sang Hàn Quốc). Các thông báo này cũng yêu cầu Việt Nam phải có biện pháp kiểm soát chặt chẽ các đối tượng kiểm dịch thực vật và dư lượng hóa chất BVTV tồn dư trong nông sản của các lô hàng XK…
“Nếu tình trạng vi phạm này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với các ngành hàng XK, làm mất uy tín của hàng nông sản Việt Nam; thậm chí có thể đánh mất thị trường đã phải mất rất nhiều công sức, thời gian và nguồn lực để mở...” - Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung lo lắng.
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, căn nguyên của vấn đề chính là việc kiểm soát tại gốc từ vùng trồng, cơ sở đóng gói chưa được quan tâm đúng mức, chưa thực hiện các quy trình kỹ thuật một cách nghiêm ngặt theo yêu cầu của các nước NK; các địa phương chưa quan tâm đúng mức đến việc giám sát sau khi được cấp mã số…
Bên cạnh đó, vẫn còn hiện tượng sử dụng mã số chưa đúng, tranh chấp về quyền sở hữu mã số, tình trạng thu hái, XK sản phẩm không đạt chất lượng. Đặc biệt, năng lực và trách nhiệm của một số địa phương trong kiểm tra điều kiện ban đầu đối với các mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói còn yếu, dẫn đến tỷ lệ các mã số đã được địa phương cấp nhưng bị nước NK từ chối còn cao.
Thứ trưởng nhấn mạnh con số gần 7.000 mã số vùng trồng và gần 2.000 cơ sở đóng gói như một điểm nhấn về những kết quả đã đạt được. Các vùng trồng và cơ sở đóng gói này đều đã được các nước NK, trong đó có những thị trường có yêu cầu cao như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản… chấp nhận và cấp mã số. “Tuy nhiên, tỷ lệ giám sát mã số sau khi cấp đối với vùng trồng là 40,8%, cơ sở đóng gói là 17%. Con số này quá thấp so với yêu cầu thực tế cần phải giám sát hàng năm…” - lãnh đạo Bộ NN&PTNT thông tin.
Tăng cường quản lý nhà nước
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý MSVT, CSĐG nông sản XK trong thời gian tới, lãnh đạo Bộ NN&PTNT yêu cầu Cục BVTV tiếp tục đàm phán để mở rộng thị trường XK và để được các nước NK cấp thêm các mã số mới cho hàng nông sản Việt Nam. Mặt khác, chủ trì, phối hợp với các địa phương tăng cường hướng dẫn, tập huấn chuyên môn cho người dân, DN và cán bộ địa phương về các quy định của nước NK; chuyển đổi và đa dạng hóa hình thức tuyên truyền tập huấn theo phương thức dễ tiếp cận đối với từng đối tượng cụ thể.
Đặc biệt, tăng cường công tác hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc cấp, quản lý và sử dụng mã số tại các địa phương. Phối hợp với các bộ, ngành và địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm; Chỉ đạo các đơn vị kiểm dịch thực vật tại cửa khẩu tăng cường kiểm tra, kiểm soát hàng hóa và thông tin về vùng trồng, cơ sở đóng gói liên quan tới lô hàng. Phát hiện, xử lý và tuyệt đối không cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật cho các lô hàng không tuân thủ.
Bộ NN&PTNT cũng yêu cầu Cục BVTV chủ trì hướng dẫn các địa phương, tổ chức, cá nhân được cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý mã số XK để kết nối với địa phương, các vùng trồng và cơ sở đóng gói…
Với các địa phương, lãnh đạo Bộ NN&PTNT yêu cầu xây dựng cơ chế và triển khai thực hiện giám sát thường xuyên việc sơ chế, chọn lọc hàng hóa để bảo đảm không nhiễm sinh vật gây hại tại các cơ sở đóng gói đã được cấp mã số; Nâng cao chất lượng kiểm tra ban đầu đối với các mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói; Tăng cường giám sát mã số sau khi được cấp…
Đồng thời tổ chức tốt chuỗi liên kết sản xuất thực chất từ vùng trồng - cơ sở đóng gói - cơ sở kiểm dịch thực vật - DN XK nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm; tuân thủ yêu cầu của nước NK và bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia.
Các cơ sở đóng gói phải bố trí nhân sự để thực hiện kiểm soát và chịu trách nhiệm đối với các biện pháp kỹ thuật áp dụng và bảo đảm việc tuân thủ yêu cầu của nước NK. Các vùng trồng, cần bám sát yêu cầu kỹ thuật của nước NK, duy trì thường xuyên việc ghi chép hồ sơ giấy tờ và phòng trừ sinh vật gây hại để bảo đảm mức độ nhiễm thấp…
“Bộ NN&PTNT sẽ áp dụng các biện pháp mạnh để siết chặt công tác quản lý để tới đây, tất cả các mặt hàng nông sản nếu được thu mua từ những khu vực có mã số vùng trồng phải bảo đảm chất lượng, không bị nhiễm vi sinh vật gây hại, không vi phạm về an toàn thực phẩm và được chuẩn hóa về bao bì mẫu mã…” - Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thứ trưởng Hoàng Trung cho biết, Bộ NN&PTNT đã đề xuất với Chính phủ xây dựng 2 nghị định: Nghị định về quản lý MSVT và CSĐG rau quả, trái cây phục vụ XK và Nghị định quy định xử phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm các quy định về MSVT và CSĐG. Bộ Tư pháp đang hướng dẫn Bộ NN&PTNT triển khai xây dựng và sớm trình Chính phủ dự thảo 2 Nghị định này.