Giải trình tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) sáng qua (20/3), Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng khẳng định nợ công thời gian qua tăng nhanh trước hết do là điều hành.
Dự báo tăng trưởng năm nào cũng sai
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, kinh tế trong 5 năm vừa qua không đạt mục tiêu tăng trưởng. Thực tế cả giai đoạn 2011-2015 chỉ đạt 5,9%, trong khi mục tiêu là hơn 7%. Trong khi đó, chúng ta vẫn đảm bảo các chỉ tiêu khác như an sinh xã hội, đầu tư hạ tầng giao thông đồng bộ theo nghị quyết của T.Ư, QH.
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế như thế trong khi điều hành cân đối đều theo dự toán đặt ra. Năm 2016 chúng ta đưa tăng trưởng là 6,7%, thực tế có 6,21%. Giá trị GDP dự kiến đạt 5,1 triệu tỷ nhưng thực tế là 4,5 triệu tỷ. Do vậy, các chỉ số nợ công, bội chi vọt lên. Nếu năm vừa qua, GDP đúng dự toán thì nợ công chỉ 60 – 61%, nhưng vì có 4,5 triệu tỷ nên nợ công lên trên 64%. Dự báo tăng trưởng GDP mấy năm gần đây năm nào cũng sai, cũng trật theo hướng đi xuống thấp. Trong khi chúng ta đã thông qua dự toán, bội chi nên tỉ lệ nợ tăng là đương nhiên” – ông Dũng lý giải.
Vẫn theo Bộ trưởng Dũng, theo Luật Ngân sách nhà nước cũ, chúng ta còn phát hành trái phiếu Chính phủ thêm 330.000 tỷ. Trong giai đoạn 2011 – 2013, để huy động vốn, chúng ta còn huy động kỳ hạn quá ngắn, lãi suất quá cao, có khoản 11 – 12%/năm nên nghĩa vụ trả nợ dồn vào các năm 2015 – 2017.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng thừa nhận có sự phối hợp không ăn ý giữa các cấp, đặc biệt là các ngành, cả sự không ăn ý trong vấn đề điều hành nợ. “Mấy năm vừa qua năm nào cũng bội chi cao do giải ngân ODA dự toán thì thấp, thực tế thì cao. Có năm dự toán chỉ 17.000 – 18.000 tỉ mà giải ngân cứ 50.000 – 60.000 tỉ thì làm sao bội chi không cao” – ông Dũng nói thêm.
Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh, nợ công tăng nhanh là thực tế khách quan. Bởi, ông cho rằng đã bàn về nợ công thì phải nhìn tổng thể về nền kinh tế và khả năng của nền kinh tế. “Khả năng có hạn, nhu cầu chi tiêu thì lớn. Chúng ta quyết chi theo nhu cầu, trong khi tăng trưởng kinh tế có hạn thì kiểu gì nợ công cũng phình ra” – ông nói.
Không chuyển nợ DN thành nợ của Nhà nước
Về nội dung của Dự thảo Luật, một trong những vấn đề còn nhiều ý kiến là phạm vi nợ công. Khoản 2 Điều 1 Dự thảo Luật quy định về phạm vi nợ công theo hướng giữ nguyên quy định của Luật hiện hành, tức nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương.
Tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách (TCNS) của QH Nguyễn Đức Hải cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS thống nhất với nội dung về phạm vi nợ công thể hiện trong Dự thảo Luật. Theo đó, không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Trong trường hợp DN không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật.
Đồng ý với Dự thảo Luật nhưng Phó Chủ tịch QH Đỗ Bá Tỵ cho rằng nếu không đưa nợ của các DNNN vào nợ công thì vẫn phải tính đến những hậu quả mà cuối cùng Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm. Bởi, DNNN do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nên các khoản nợ này về bản chất Nhà nước vẫn phải có trách nhiệm trong trường hợp DN không có khả năng trả nợ.
Còn Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của QH Phan Thanh Bình đề nghị phải có định nghĩa rõ về khu vực công, tài chính công. Bởi, theo ông, nếu xếp DNNN và cả NHNN vào khu vực công thì nợ của các đơn vị này dù Chính phủ có bảo lãnh hay không cũng là nợ công và khi những DN này phá sản thì Nhà nước phải trả nợ.
Giải trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, các khoản vay về cho vay lại mà Chính phủ bảo lãnh đã tính trong nợ công. “Còn nợ khác của DNNN thì vay không trả được thì cho phá sản theo luật định. Cương quyết như vậy. Nghị quyết của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của QH đã cấm chuyện này, không chuyển nợ DN thành nợ của Nhà nước” – ông Dũng nhấn mạnh.
Quy định rõ quy trình phối hợp trong công tác quản lý nợ công
Về nhiệm vụ, quyền hạn của một số bộ, ngành, Điều 19 Dự thảo luật quy định theo hướng Bộ Tài chính là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ công và Điều 20 giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài.
Tuy nhiên, Ủy ban TCNS đề nghị sửa đổi theo hướng giao Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối thực hiện chức năng quản lý nợ công, đại diện đàm phán, ký kết các hiệp ước vay nợ và quản lý tập trung các nguồn lực nợ công. Bởi, theo ông Nguyễn Đức Hải, việc quản lý tập trung thống nhất này là nhằm thể chế hóa yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết 07/NQ-TW, theo đó phải sớm khắc phục tình trạng “quản lý đầu tư công, nợ công còn chồng chéo, chưa gắn trách nhiệm cân đối ngân sách, vay và trả nợ với phân bổ, sử dụng vốn”.
Thứ hai, thực tiễn cho thấy việc thực hiện theo quy định luật hiện hành đã dẫn đến công tác quản lý nợ công, trong đó có huy động, quản lý vốn vay còn phân tán, thiếu tập trung, việc phối hợp chưa chặt chẽ nên công tác theo dõi, tổng hợp báo cáo, xác định trách nhiệm,... còn khó khăn, bất cập. Thêm vào đó, ông Hải cho rằng thông lệ tốt được nhiều nước trên thế giới đã và đang thực hiện là quy định rõ một đầu mối quản lý tập trung, thống nhất nguồn lực nợ công.
Liên quan đến vấn đề này, Ủy ban TCNS cũng đề nghị bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan theo hướng cụ thể, chặt chẽ, hiệu quả, xác định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành, quy định rõ quy trình phối hợp trong công tác quản lý nợ công. Bộ Kế hoạch và Đầu tư với trách nhiệm là cơ quan chủ trì xây dựng kế hoạch đầu tư công sẽ cân đối, đề xuất nhu cầu vốn đầu tư; Bộ Tài chính chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn, lựa chọn hình thức vay, nguồn vốn vay, đối tác vay, đàm phán vay nợ,... gắn với việc bảo đảm khả năng trả nợ của NSNN và chỉ số an toàn về nợ công.