Sắc mặt tối sầm, hai tay run run, cảm giác trong người mệt mỏi hơn thường ngày là một số triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân Nguyễn Tuệ (ngụ quận Tân Phú, TP HCM) khi được gia đình đưa đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh cấp cứu. Tiếp nhận ca bệnh, TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Phẫu thuật Tim mạch - Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch, nhận định bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu não thoáng qua và chỉ định thực hiện siêu âm doppler, chụp cắt lớp mạch máu (CTA) để đánh giá chi tiết tình trạng bệnh.
Kết quả cận lâm sàng cho thấy, bệnh nhân bị hẹp động mạch cảnh trong phía bên phải, phần đoạn gốc hẹp nặng lên đến 90%, còn động mạch cảnh bên trái hẹp 50%; ngoài ra cũng xuất hiện xơ vữa và hẹp ở nhiều vị trí khác. Trước đó, bệnh nhân từng bị một cơn đột quỵ khác, tuy đã hồi phục nhưng bản thân yếu nửa người bên trái, bác sĩ đánh giá sức cơ giảm một phần tư. Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật, tái thông vị trí hẹp của động mạch cảnh với mục tiêu phòng ngừa những cơn đột quỵ tái phát sau này. Bởi những cơn đột quỵ sau sẽ có xu hướng nặng hơn và có thể để lại các di chứng nặng nề.
Theo bác sĩ Dũng, vì bệnh nhân đã cao tuổi và có tiền căn cao huyết áp, rối loạn mỡ máu nên ekip đánh giá rất kỹ trường hợp này trước khi tiến hành phẫu thuật. Mọi thao tác trong cuộc mổ đều phải chính xác tuyệt đối nhằm tái thông động mạch và hạn chế nguy cơ biến chứng. Sau gần 2 giờ phẫu thuật, các bác sĩ đã tiếp cận vùng có tổn thương và xử lý hoàn toàn mảng xơ vữa để giải quyết tình trạng hẹp động mạch cảnh.
“Trong suốt quá trình phẫu thuật, chúng tôi luôn cố gắng duy trì chỉ số huyết áp tâm thu của bệnh nhân cao hơn bình thường một chút, khoảng 140 mmHg. Với mức huyết áp như vậy thì các mạch máu bàng hệ sẽ bù tưới máu ở mô não trong quá trình chúng ta thao tác trên động mạch cảnh, nhất là khoảng thời gian kẹp động mạch cảnh. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và thao tác nhanh gọn, ca mổ diễn ra đúng như dự kiến ban đầu. Bệnh nhân lớn tuổi nhưng hồi phục khá tốt sau đó”, bác sĩ Dũng chia sẻ.
Bệnh nhân sau khi được được phẫu thuật xử lý hẹp động mạch cảnh sẽ tiếp tục được điều trị nội khoa, dần loại bỏ các yếu tố nguy cơ để phòng ngừa tình trạng xơ vữa, tránh gây nên tình trạng tái hẹp sau này. Theo bác sĩ Dũng, việc điều trị hẹp động mạch cảnh bằng phẫu thuật hoặc đặt stent mới chỉ giải quyết nguyên nhân cơ học tại chỗ bị hẹp, bệnh nhân cần đẩy lùi hoặc kiểm soát các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường, xơ vữa mạch máu… Trong đó, bệnh nhân được mổ hoặc đặt stent động mạch cảnh cần dùng thuốc kháng kết tập tiểu cầu ít nhất 6 tháng hoặc dài hơn tùy theo tình trạng bệnh lý nền.
Bên cạnh đó, bác sĩ Dũng cũng lưu ý, bệnh nhân cần thay đổi chế độ ăn uống hằng ngày. Chẳng hạn, bệnh nhân đái tháo đường cần hạn chế tinh bột, thực phẩm nhiều đường theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị; người thừa cân - béo phì, rối loạn lipid máu cũng phải hạn chế ăn chất béo, thịt đỏ, thực phẩm nhiều dầu mỡ không có lợi cho tim mạch…
Sau khi xuất viện 1 tuần, bệnh nhân sẽ được hẹn tái khám. Tiếp đó sẽ cách nhau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Tùy theo từng trường hợp, bệnh nhân có thể được kiểm tra bằng siêu âm sau 3 đến 6 tháng, kết hợp điều trị nội khoa các bệnh lý nền để có được kết quả tốt nhất sau khi phẫu thuật hay đặt stent.
|
Hệ thống chụp CT 768 lát cắt hiện đại tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh giúp phát hiện sớm các bệnh lý tim mạch, mạch máu. Ảnh: Bệnh viện cung cấp. |
Bác sĩ Dũng cho biết, hiện nay để điều trị hẹp động mạch cảnh, bác sĩ có thể chỉ định phẫu thuật hoặc đặt stent. Việc lựa chọn kỹ thuật nào sẽ dựa vào mức độ hẹp của động mạch cảnh và đi kèm một số điều kiện khác. Nếu mức độ hẹp trên 70%, bệnh nhân dù có triệu chứng hay không có triệu chứng cũng sẽ được chỉ định điều trị.
Trường hợp bệnh nhân không có các yếu tố cản trở cho việc phẫu thuật, theo khuyến cáo của các Hiệp hội Tim mạch, Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ, châu Âu nên phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh ưu tiên hơn là đặt stent. Ngược lại, những trường hợp bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ trong phẫu thuật, như tổn thương động mạch cảnh ở vị trí cao, gần đi vào sọ, khó có thể thực hiện phẫu thuật được; ở cổ có vết mổ cũ hoặc từng xạ trị vùng cổ… được khuyến cáo lựa chọn đặt stent.
“Với bệnh nhân có triệu chứng và mức độ hẹp động mạch cảnh từ 50% trở lên, gần đây các Hiệp hội Tim mạch của châu Âu hay Hoa Kỳ khuyến cáo nên ưu tiên điều trị bằng phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh. Bởi theo các nghiên cứu, việc đặt stent có tỷ lệ di chứng ảnh hưởng đến chức năng của não, cũng như nguy cơ đột quỵ từ mức độ nhẹ đến nặng nhiều hơn so với thực hiện bóc lớp trong động mạch cảnh”, bác sĩ Dũng nói thêm.
* Tên nhân vật trong bài đã được thay đổi