Quảng Bình: Huy động nhiều nguồn lực để thực hiện các chương trình đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) được Quảng Bình huy động nguồn vốn từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và những nguồn vốn huy động khác đã mang lại nhiều kết quả tích cực.
Quảng Bình: Huy động nhiều nguồn lực để thực hiện các chương trình đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thực hiện Quyết định số 2152/QĐ-TTg ngày 18/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành kế hoạch, văn bản giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban, ngành và địa phương nhằm tiếp tục đẩy mạnh hợp tác thu hút nguồn lực vốn đầu tư, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước, tổ chức quốc tế, tập thể, cá nhân ở nước ngoài hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào DTTS&MN, trong đó ưu tiên lồng ghép các hoạt động tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư để hỗ trợ triển khai thực hiện Chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021 - 2030; giai đoạn I từ 2021 - 2025.

Tỉnh Quảng Bình gồm có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh, chiếm khoảng 97%. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem,... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Trong những năm qua, vùng đồng bào DTTS&MN của tỉnh thường xuyên chịu ảnh hưởng và tác động lớn của thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, do mật độ dân cư thưa thớt, điều kiện đất đai khó canh tác, trình độ dân trí tuy có phát triển nhưng không đồng đều. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đến bà con đồng bào DTTS&MT có nhiều trở ngại, việc tiếp thu chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, do đó đời sống của đồng bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn.

Một tiết học của các em học sinh Trường Dân tộc nội trú huyện Bố Trạch.

Một tiết học của các em học sinh Trường Dân tộc nội trú huyện Bố Trạch.

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, đồng bào vùng DTTS&MN của tỉnh đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, phát huy truyền thống đoàn kết, tích cực lao động, sản xuất và đã giành được nhiều thành tích đáng khích lệ; kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố ngày càng vững mạnh.

Hệ thống chính trị ở vùng đồng bào DTTS&MN không ngừng được kiện toàn, củng cố. Hiện nay, các xã vùng DTTS&MN không còn “bản trắng” về chi bộ và đảng viên. Tính đến hết năm 2020, đảng viên người DTTS&MN là 1.208 người.

Sau đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025, có 82 đảng viên là người DTTS&MN tham gia cấp ủy cơ sở và 2 đảng viên tham gia cấp ủy cấp trên cơ sở. Số lượng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS&MN tăng khá; có 536 cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS&MN công tác tại các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị-xã hội và các đơn vị sự nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Trung tâm y tế huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Trung tâm y tế huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Các nguồn vốn đầu tư được Quảng Bình tập trung ưu tiên cho một số lĩnh vực như: xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, dân sinh, chuẩn hóa quốc gia y tế, giáo dục, hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, đào tạo, dạy nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm. Hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo nghề đầy đủ, đúng đối tượng và đạt hiệu quả cao.

Tổng nguồn vốn để thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS&MN trong năm 2022 của tỉnh Quảng Bình là 260.689 triệu đồng, từ ngân sách Trung ương và địa phương. Nguồn kinh phí này để thực hiện 10 dự án nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, như: giải quyết đất ở, nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư ở địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng có nguy cơ cao về thiên tai; phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp; đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, trong đó ưu tiên các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn; đầu tư tạo sinh kế, phát triển kinh tế nhóm dân tộc rất ít người, nhóm dân tộc còn gặp nhiều khó khăn; chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo.

Cụ thể, đối với chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành các chủ trương chính sách quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn, huy động các nguồn lực tập trung phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo trên địa bàn. Đến nay hệ thống trường học đã được xây dựng khá kiên cố, khang trang, Các trang thiết bị phục vụ dạy và học được đầu tư tương đối đồng bộ. Số trường đạt chuẩn Quốc gia ngày càng tăng.

Tỷ lệ các cháu mầm non đến trường đạt hơn 93%; tỷ lệ học sinh TH đến trường đúng độ tuổi đạt gần 99%, THCS gần 96%; THPT đạt hơn 63%. Số em học Đại học, Cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp ngày càng tăng; Hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú phát triển. 100% xã có trường mầm non, tiểu học, THCS: 100% xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, nhiều nơi đạt chuẩn phổ cập THCS.

Toàn tỉnh hiện có 5 trường phổ thông dân tộc nội trú, 11 trường phổ thông dân tộc bán trú. Trong giai đoạn 2016 - 2022 đã đào tạo, tuyển dụng, bố trí được 240 con em đồng bào vào làm việc tại các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể; 136 em vào làm việc ở các trường học và trạm y tế trên địa bàn của tỉnh.

Công tác khám và chữa bệnh cho đồng bào DTTS luôn được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Bình quan tâm.

Công tác khám và chữa bệnh cho đồng bào DTTS luôn được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Bình quan tâm.

Về chính sách đầu tư cho lĩnh vực y tế, đến nay, 100% các xã vùng DTTS&MN đã có Trạm y tế có bác sỹ phục vụ, 100% thôn, bản có nhân viên y tế; trạm y tế các xã miền núi nhất là các xã đặc biệt khó khăn cũng được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc chữa bệnh thiết yếu, do vậy đã thực hiện tốt các mục tiêu Chương trình y tế Quốc gia.

Theo thống kê, đến nay 64/64 xã miền núi, vùng cao đồng bào DTTS của tỉnh có nhà văn hoá xã; 100% thôn bản có nhà sinh hoạt cộng đồng; có 27 bản đạt danh hiệu "Bản văn hoá", các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì, tổ chức thường xuyên. Giai đoạn 2016-2022, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng đã bầu chọn được 738 lượt người có uy tín gồm các thành phần như già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, trưởng thôn, nhà giáo, nhân sỹ trí thức, người sản xuất kinh doanh giỏi.

Theo đó, trong thời gian tới, Quảng Bình sẽ tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, nhất là vùng DTTS&MN để nâng cao nhận thức của người dân. Xác định hình thức tuyên truyền phù hợp với điều kiện đặc thù của vùng đồng bào DTTS&MN, vùng đặc biệt khó khăn. Khơi dậy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh nói chung và vùng đồng bào DTTS&MN nói riêng để chủ động, tích cực tham gia thực hiện chương trình.

Đời sống và điều kiện sinh hoạt của người dân đồng bào DTTS ở huyện Bố Trạch vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn.

Đời sống và điều kiện sinh hoạt của người dân đồng bào DTTS ở huyện Bố Trạch vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh những kết quả tích cực về đầu tư cho vùng đồng bào DTTS&MN đã đạt được, điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN vẫn còn nhiều khó khăn dẫn đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng DTTS&MN còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn cao, kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững. Hệ thống chính trị cơ sở chưa thực sự vững mạnh toàn diện; an ninh trật tự vùng miền núi, biên giới còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS&MN còn nhiều hạn chế.

Đọc thêm