Quảng Ninh có 7 di sản Văn hóa Phi Vật thể cấp Quốc gia và 8 di tích Quốc gia Đặc biệt

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -Sở hữu nguồn tài nguyên di sản thiên nhiên cùng di sản văn hóa vật thể, phi vật thể phong phú, độc đáo, tỉnh Quảng Ninh đang trong tiến trình xây dựng các ngành công nghiệp văn hóa thích ứng với những bước phát triển mới của thời đại.
Thiếu nữ Tày (Bình Liêu) hát Then cùng Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh.
Thiếu nữ Tày (Bình Liêu) hát Then cùng Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh.

7 di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia

Trong số 7 di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia của Quảng Ninh, có 5 di sản văn hóa phi vật thể được xếp vào loại hình lễ hội truyền thống, 1 di sản thuộc loại hình tập quán xã hội-tín ngưỡng và 1 di sản thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian. Để phát huy các giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể này, hiện nay, Quảng Ninh đã và đang thực hiện nhiều hoạt động bảo tồn, phục dựng, bảo tồn gắn với khai thác du lịch.

Riêng Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam mà Quảng Ninh có đại diện là Then của người Tày ở Bình Liêu đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi Vật thể đại diện của nhân loại. Đây chính là nguồn tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ thu hút ngày càng nhiều khách tham quan trong và ngoài nước đến Quảng Ninh.

Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái

Thực hành Then là nghi lễ không thể thiếu trong đời sống văn hóa tâm linh của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái ở các tỉnh miền núi phía bắc của Tổ quốc như Bắc Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang; ở vùng Tây Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và một số địa phương khác ở Việt Nam.

Một trong những điểm đặc sắc của Then là ngôn ngữ ẩn chứa chiều sâu văn hóa. Nội dung các khúc hát then - một loại hình diễn xướng dân gian, tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật đều toát lên tư tưởng nhân văn sâu sắc, chứa đựng tình yêu thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nghĩa vợ chồng, răn dạy đạo lý làm người, ca ngợi làng bản, quê hương.

Giai điệu Then sâu lắng, có sức truyền cảm, lay động lòng người, âm thanh đàn Tính - nhạc cụ chính được sử dụng trong hát Then mượt mà, rạo rực, tạo nên hồn dân ca, dân vũ đặc sắc. Với những giá trị nghệ thuật độc đáo của mình, Then đã góp phần hun đúc tâm hồn, tình cảm và ý chí, khát vọng vươn lên, xây đắp cuộc sống ấm no, hạnh phúc của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Di sản Then của các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có Quảng Ninh được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia kể từ năm 2012. Năm 2019, thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, ở Việt Nam mà Quảng Ninh có đại diện là Then của người Tày ở Bình Liêu đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi Vật thể đại diện của nhân loại.

Hát Nhà Tơ (Hát Cửa Đình)

Nghệ thuật trình diễn dân gian Hát Nhà Tơ (Hát Cửa Đình) đã tồn tại hàng nghìn năm, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của cư dân các làng xã ven biển, hải đảo Quảng Ninh. Đây là một thể loại được coi là một biến thể, một “mảnh vỡ đáng quý ” (theo cách nói của Giáo sư Tô Ngọc Thanh) trong số 46 làn điệu của ca trù Việt Nam.

Không gian tồn tại của Hát Nhà Tơ kéo dài dọc theo các làng xã từ huyện Vân Đồn đến các vùng dân cư ven biển như Đầm Hà, Hải Hà, Móng Cái; thậm chí còn sang tận bên kia biên giới ở 3 làng người Việt ở Giang Bình, Vạn Vỹ, Sơn Tâm (thuộc huyện Phòng Thành, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc).

Đây là một loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian cộng đồng được lớp người cao tuổi nắm giữ và lưu truyền trong dân. Loại hình này có phong cách hát, múa nhẹ nhàng, uyển chuyển, thường là trong gia đình có bố mẹ đi hát, hoặc nghe hát rồi truyền lại cho con cháu. Tuy nhiên, khác với ca trù, Hát Nhà Tơ ngoài lời hát, còn rất coi trọng múa. Gần như khi trình diễn, tất cả các làn điệu hát đều có múa đi kèm. Đội hát múa là các ca nương trẻ, ít nhất là 3 người, nhiều nhất là 9 người.

Vì coi trọng múa nên trong Hát Nhà Tơ - Hát, múa cửa đình, ca nương chủ yếu là đứng hát (ngược lại ca trù ca nương chỉ ngồi hát). Cũng vì có múa nên không gian diễn xướng của Hát Nhà Tơ - Hát, múa cửa đình rộng mở hơn ca trù. Ca trù hát ở trên chiếu, sập còn với Hát Nhà Tơ đó là cả sân đình, cả một không gian lễ hội. Thậm chí đó là cả một cánh đồng, dòng sông khi người Hát Nhà Tơ vừa hát vừa lao động sản xuất. Hát Nhà Tơ được công nhận là Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia năm 2015.

Lễ hội Tiên Công

Lễ hội Tiên Công bắt đầu được tổ chức từ thế kỷ XVII, gắn với lịch sử hình thành vùng đảo Hà Nam và mang đậm bản sắc văn hóa cư dân vùng cửa biển Bạch Đằng. Lễ hội Tiên Công được người dân vùng đảo Hà Nam, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, gìn giữ nhằm tưởng nhớ 17 vị Tiên công, những người đầu tiên quai đê, lấn biển lập làng ở vùng này. Lễ hội diễn ra từ mùng 5 tới mùng 7 Tết Nguyên đán hằng năm, là nét đẹp văn hóa truyền thống uống nước nhớ nguồn của người dân vùng cửa biển Bạch Đằng.

Lễ hội với nhiều nét văn hóa đặc sắc, độc đáo trong cả nước, được biểu hiện ở các nghi lễ, nghi thức và biểu trưng như: Nghi lễ mừng thọ tại gia đình; hội nghị mừng thọ của chính quyền địa phương; nghi lễ mừng thọ của dòng tộc đối với các cụ ông, cụ bà thọ tròn 80, 90, 100 tuổi; nghi thức dẫn thọ, đặc biệt là nghi thức “rước người sống;” nghi lễ quán trạm con rể đón cụ thượng; nghi lễ tế Tiên Công tứ xã; nghi thức cụ thượng đắp đê, đánh vật tượng trưng trong lễ hội...Ngày 8/5/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định công bố, vinh danh Lễ hội Tiên Công là Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia.

Lễ hội Đền Cửa Ông

Đền Cửa Ông (TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh) là một trong những di tích lịch sử văn hóa thời nhà Trần, có lịch sử lâu đời gắn liền thần tích về Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, người đã gắn bó cả cuộc đời với những chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm tại miền đất biên ải Tổ quốc.

Ông là con thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, là dũng tướng có công với dân, với nước, 2 lần được cử ra Cửa Suốt, một vị trí chiến lược của vùng Đông Bắc để trấn giữ. Để ghi nhớ công đức của Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, nhân dân lập đền thờ tại Cửa Ông. Đền Cửa Ông được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích Lịch sử Quốc gia Đặc biệt năm 2017.

Lễ hội đền Cửa Ông được mở hàng năm vào ngày 3-4/2 và 3-4/8 (âm lịch), mang biểu tượng của tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước, biểu tượng đó được thể hiện bằng sự tôn vinh nhân vật lịch sử, người anh hùng dân tộc thời nhà Trần - Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng.

Lễ hội đền Cửa Ông nhằm tái hiện lịch sử, công lao to lớn của các bậc "khai quốc công thần," những người có công với dân, với nước; là dịp để mỗi người dân thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn," cầu mong cho dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, gia đình hạnh phúc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, lòng nhân ái và trách nhiệm người dân với quê hương, đất nước. Lễ hội đền Cửa Ông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản Văn hóa Phi Vật thể cấp Quốc gia vào cuối năm 2016.

Lễ hội Đình Trà Cổ

Đình Trà Cổ và Lễ hội Đình Trà Cổ có bề dày lịch sử về văn hóa và kiến trúc độc đáo. Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê, tọa lạc tại khu Nam Thọ, phường Trà Cổ, TP Móng Cái. Đình Trà Cổ thờ 6 vị tiên công người Đồ Sơn (Hải Phòng) và thờ Quận He Nguyễn Hữu Cầu - một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa thời Lê - Trịnh cũng quê ở Đồ Sơn (TP Hải Phòng). Tương truyền, vào đầu thế kỷ XVI, có 12 hộ dân chài từ Đồ Sơn đi đánh cá bị giông tố mà dạt đến đất này. Cơn bạo nạn đi qua, 6 gia đình không chịu được khó khăn nơi đây nên đã quay về, còn 6 gia đình ở lại lập nghiệp.

Nghi lễ rước thần trong khuôn khổ hội đình Trà Cổ, TP Móng Cái.

Nghi lễ rước thần trong khuôn khổ hội đình Trà Cổ, TP Móng Cái.

Tên gọi Trà Cổ được giải thích là tên ghép của hai làng Trà Phương và Cổ Trai (nay thuộc huyện Kiến Thụy, Hải Phòng) là đất phát tích của nhà Mạc vào đầu thế kỷ XVI. Người Trà Cổ có câu “Người Trà Cổ tổ Đồ Sơn” lưu truyền qua các thế hệ chính là răn dạy con cháu nhớ đến gốc gác tổ tiên của mình. Lễ hội Đình Trà Cổ được tổ chức hàng năm vào ngày 30/5 và 1/6 âm lịch., với hai phần gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm các lễ mục dục, lễ rước cây đèn thần và thi Ông Voi. Đến ngày 1/6 là thực hiện các nghi lễ: lễ thỉnh sinh, lễ rước kiệu nghênh thần. Phần hội gồm các chương trình văn nghệ Hát Nhà Tơ và tổ chức một số trò chơi như cướp cờ, kéo co, đi cà kheo.....

Đình Trà Cổ và lễ hội Đình Trà Cổ với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật độc đáo từ lâu đã trở thành “ Cột mốc văn hóa” nơi địa đầu Đông Bắc của Tổ Quốc. Năm 2019, Lễ hội Đình Trà Cổ đã được công nhận là Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia.

Lễ hội Đình Quan Lạn

Lễ hội Đình Quan Lạn (Lễ hội truyền thống Vân Đồn) nhằm tưởng nhớ quân dân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đã đánh tan đoàn thuyền lương của tướng Nguyên Mông là Trương Văn Hổ trên dòng sông Mang lịch sử tại khu vực xã Quan Lạn. Lễ hội được tổ chức tại bến Đình, nơi có Đình Quan Lạn và một số ngôi đình cổ ở xã. Theo truyền thống, Lễ hội diễn ra trong 10 ngày, từ ngày 10 đến hết 19/6 âm lịch hàng năm.

Lễ hội Đình Quan Lạn thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nước của những người dân vùng biển. Du khách du lịch Quan Lạn dịp lễ hội sẽ có cơ hội tìm hiểu về truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha ta đã bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời khám phá thêm những nét văn hóa địa phương vô cùng độc đáo của người dân đảo Vân Đồn.

Vào Ngày 10/6: khoá làng (một tục lệ trong lễ hội của người Việt), dân trong làng không được đi bất cứ đâu nhưng những người làm ăn ở xa và khách thập phương lại có thể về làng dự hội. Lễ hội Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải. Dân làng chia làm hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị thuyền đua. Thuyền đua thường là thuyền đi biển trọng tải 5 đến 6 tấn, rộng và sâu lòng, được hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi thuyền.

Ngày 16/6 làm lễ nghinh thần. Dâng lễ rước bài vị của Trần Khánh Dư từ nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dưới bến, đôi thuyền đua tập luyện tạo một không khí tưng bừng náo nhiệt. Lễ hội Đình Quan Lạn được công nhận là Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia năm 2019.

Lễ hội Bạch Đằng

Lễ hội Bạch Đằng được tổ chức từ ngày mùng 6-8/3 (âm lịch) hằng năm (được gọi là ngày giỗ trận Bạch Đằng), nhằm tri ân các vị anh hùng trên dòng Bạch Đằng Giang lịch sử trong những năm 938 và năm 1288. Không gian lễ hội diễn ra tại quần thể Khu Di tích Lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng với các điểm chính là Đền Trần Hưng Đạo, Miếu Vua Bà, Đình Yên Giang.

Mọi hoạt động của lễ hội đều gắn liền với Bạch Đằng Giang, con sông huyền thoại đã ba lần chứng kiến những trận đại chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Với ý nghĩa và giá trị lịch sử vĩ đại của Chiến thắng Bạch Đằng trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, Lễ hội Bạch Đằng được công nhận là Di sản Văn hóa Phi Vật thể Quốc gia năm 2021

8 di tích Quốc gia Đặc biệt

Với bề dày lịch sử, Quảng Ninh tự hào có kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, gồm trên 630 di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng, trong đó có di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, 8 di tích Quốc gia đặc biệt cùng nhiều di sản văn hóa phi vật thể quý giá. Tỉnh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác bảo tồn, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa trọng điểm, đẩy mạnh nguồn lực xã hội hóa cho công tác này. Hệ thống thiết chế văn hóa đồng bộ, hiện đại mà Quảng Ninh đang sở hữu có thể đáp ứng yêu cầu tổ chức nhiều sự kiện văn hóa mang tầm quốc gia, quốc tế.

Sự gắn bó mật thiết giữa di tích lịch sử - văn hóa, phong tục tập quán của người dân và các thắng cảnh nổi tiếng là một lợi thế để tạo tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa mang thương hiệu Quảng Ninh.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh, nguyên Chủ tịch Hội VHNT Quảng Ninh, nhận định: Văn hóa Quảng Ninh có những đặc trưng và những giá trị không phải nơi nào cũng có. Đó là giá trị văn hóa - lịch sử của một vùng đất gắn bó rất sâu sắc với lịch sử nhà Trần, là cái nôi của văn hóa công nhân mỏ, trên cơ sở đó đủ điều kiện để chúng ta xây dựng một ngành công nghiệp văn hóa, tạo đà để Quảng Ninh có những bước tiến mới.

Danh lam Thắng cảnh Vịnh Hạ Long

Danh lam Thắng cảnh Vịnh Hạ Long là Di sản - Kỳ quan Thiên nhiên Thế giới, chứa đựng những dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ; đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên với sự hiện diện của hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng, với nhiều hang động kỳ thú quần tụ thành một thế giới vừa sinh động vừa huyền bí.

Vịnh Hạ Long được xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009. Vịnh Hạ Long đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) hai lần công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới nhờ giá trị nổi bật toàn cầu về thẩm mỹ năm 1994 và giá trị địa chất-địa mạo năm 2000.

Khu Di tích Lịch sử và Danh lam Thắng cảnh Yên Tử

Khu Di tích Lịch sử và Danh lam Thắng cảnh Yên Tử gắn liền với tên tuổi Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308), vị vua lãnh đạo quân dân thời Trần 2 lần đánh thắng quân Nguyên-Mông, rồi từ bỏ ngai vàng, lên Yên Tử tu hành, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Khu di tích là một quần thể chùa, am, tháp, tượng, rừng cây cổ thụ; địa hình, địa chất phức tạp của khu vực đã kiến tạo nên các điểm cảnh quan kỳ vĩ, như thác Ngự Dội, thác Vàng, thác Bạc, cổng Trời, đường Tùng, rừng trúc, đỉnh núi Yên Tử..., nơi có những kiến trúc cổ truyền hòa mình vào thiên nhiên hùng vỹ. Khu di tích được xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 1419/QĐ-TTg, ngày 27/9/2012.

Di tích Lịch sử Bạch Đằng

Di tích Lịch sử Bạch Đằng nằm trên địa bàn Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí. Đây là địa điểm ghi dấu sự kiện quân và dân nhà Trần đã lập nên chiến thắng lẫy lừng - Chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông năm 1288. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, dấu tích của trận chiến trên dòng Bạch Đằng năm 1288 vẫn còn hiện hữu qua những di tích tiêu biểu. Di tích Lịch sử Bạch Đằng được xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 1419/QĐ-TTg, ngày 27/9/2012.

Khu Di tích Nhà Trần tại Đông Triều

Khu Di tích Lịch sử nhà Trần tại Đông Triều gồm 14 di tích với 22 điểm di tích, bao gồm các đền, miếu, lăng tẩm, am tháp, chùa và công trình tôn giáo gắn liền với lịch sử nhà Trần và Thiền phái Trúc Lâm. Nhiều công trình văn hóa đặc sắc được xây dựng với quy mô lớn mang tầm quốc gia như Thái Miếu, đền An Sinh, hệ thống lăng miếu nhà Trần, chùa Quỳnh Lâm, chùa Ngọa Vân...Khu di tích được xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg, ngày 9/12/2013. Bên cạnh giá trị về kiến trúc, Khu di tích còn lưu giữ khá nhiều di vật, cổ vật có giá trị về lịch sử, văn hóa và khoa học; duy trì nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo gắn với lịch sử vùng đất.

Di tích Lịch sử Đền Cửa Ông

Di tích Lịch sử Đền Cửa Ông nằm trên dãy núi Cẩm Sơn (phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả), mặt hướng ra bờ Vịnh Bái Tử Long, hội tụ được các lợi thế về phong thủy: Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ. Nơi đây tạo nên sự giao hòa giữa núi non, rừng, biển, một cảnh đẹp tuyệt vời của vùng Đông Bắc Tổ quốc. Đền thờ Đức Ông Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, phối thờ gia thất cùng nhiều tướng lĩnh thời nhà Trần; là nơi diễn ra Lễ hội Đền Cửa Ông hằng năm. Di tích Đền Cửa Ông được xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 2081/QĐ-TTg, ngày 25/12/2017.

Khu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô

Di tích Lịch sử Khu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô gắn liền với sự kiện ngày 9/5/1961, Bác Hồ ra thăm đảo Cô Tô. Đây là nơi duy nhất trong cả nước được Bác Hồ đồng ý cho dựng tượng của mình khi Người còn sống. Di tích được xây dựng từ năm 1968 và công nhận xếp hạng Di tích quốc gia năm 1997. Trải qua nhiều lần tu sửa, nâng cấp, mở rộng, công trình vẫn lưu giữ được nguyên bản về giá trị và ngày càng có ý nghĩa sâu sắc, là địa điểm tham quan ý nghĩa nhất trong các tuyến, điểm du lịch trên đảo Cô Tô. Ngày 18/1/2022, Khu lưu niệm được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt. Khu di tích là điểm nhấn về cảnh quan, lịch sử-văn hóa, là niềm vinh dự, tự hào, điểm tựa tinh thần vững chắc của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân huyện đảo vùng Đông Bắc Tổ quốc.

Quân và dân trên đảo Cô Tô chào cờ nhân dịp 60 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh tại khu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quân và dân trên đảo Cô Tô chào cờ nhân dịp 60 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh tại khu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 24/10, Thủ Tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1225/QĐ-TTg về việc công nhận xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với 2 di tích của tỉnh Quảng Ninh. Theo đó, 2 di tích được công nhận là di tích lịch sử quần thể Thương cảng Vân Đồn và di tích kiến trúc - nghệ thuật đình Trà Cổ.

Di tích lịch sử quần thể Thương cảng Vân Đồn

Theo tài liệu lịch sử, Thương cảng Vân Đồn được thành lập từ khoảng năm 1149 đời vua Lý Anh Tông. Tuy nhiên, phải đến dưới thời Trần, thương cảng này mới thực sự phát triển mạnh mẽ, đồng thời trên 2 phương diện là trung tâm giao thương quốc tế và là vị trí trọng yếu của an ninh quốc gia vùng biển Đông Bắc. Giai đoạn phát triển cực thịnh của thương cảng là từ thế kỷ 13-16.

Thương cảng Vân Đồn trong suốt hơn 700 năm lịch sử không chỉ hoạt động đơn tuyến với một bến cảng duy nhất mà là một hệ thống các bến bãi, vụng đỗ tàu liên đới với nhau. Trung tâm của thương cảng có phạm vi 200 km2, ở vùng vịnh Bái Tử Long, thuộc địa bàn xã Thắng Lợi, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng (H.Vân Đồn). Đặc biệt, vùng Cống Đông - Cống Tây (xã đảo Thắng Lợi, H.Vân Đồn) là trung tâm một thời của Thương cảng Vân Đồn.

Di tích kiến trúc - nghệ thuật đình Trà Cổ

Đình Trà Cổ là một trong những di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu đã được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ VH-TT-DL) xếp hạng di tích cấp quốc gia từ năm 1974. Về niên đại của đình Trà Cổ, đến nay chưa tìm thấy các căn cứ lịch sử, khoa học khẳng định niên đại chính xác, nhưng có nhiều ý kiến được đưa ra, sớm nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 15.

Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm kiến trúc còn lưu giữ được, có thể phỏng đoán đình Trà Cổ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 - đầu thế kỷ 18. Đáng chú ý, di tích được đánh giá là một trong những ngôi đình cổ, có bề dày lịch sử, văn hóa, có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của khu vực đồng bằng Bắc bộ, đã kế thừa được những tinh hoa nghệ thuật của cả một giai đoạn lịch sử/./.

Đọc thêm