Sức mạnh làm nên 'Đường Trường Sơn huyền thoại'

(PLVN) - Trong 16 năm, Bộ đội Trường Sơn cùng các lực lượng đã xây dựng tuyến vận tải với chiều dài 20.330km, với 6 trục dọc, 21 trục ngang, 1.399km đường ống xăng dầu, 14.000km đường thông tin hữu tuyến và thiết bị tiếp sức, trải rộng trên 400.000km2 thuộc 21 tỉnh của Việt Nam, Lào và Campuchia. Đường Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh đi vào lịch sử như một huyền thoại, một kỳ tích của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Nữ chiến sĩ đơn vị xăng dầu trên đường Tây Trường Sơn những năm chiến tranh. Ảnh: Vương Khánh Hồng

Nơi thử thách cao độ ý chí, lòng quả cảm 

Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho biết: “Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được biết đến như một con đường huyền thoại của thế kỷ XX.

16 năm, từ lối mòn giao liên bí mật với phương thức vận tải thô sơ, gùi thồ là chủ yếu, Đường Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh đã phát triển thành một hệ thống đường chiến lược nối liền từ hậu phương lớn miền Bắc tới các chiến trường với chiều dài tới gần 20.000km. Trên tuyến đường này đã diễn ra nhiều cuộc chiến đấu vô cùng khốc liệt giữa ta và địch; không quân Mỹ-ngụy đã đánh phá 151.800 trận với 733.000 lần chiếc máy bay, ném xuống tuyến đường gần 4 triệu tấn bom đạn... 

Chiến đấu trên một mặt trận vô cùng ác liệt, nơi thử thách cao độ ý chí, trí tuệ và lòng quả cảm của con người Việt Nam trước vũ khí tối tân của đế quốc Mỹ, Bộ đội Trường Sơn đã đặt lên hàng đầu “yếu tố con người”, xây dựng nên những tập thể cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ý chí quyết chiến, quyết thắng, dũng cảm, sáng tạo, luôn nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao”... 

Ngày 13/8/1959, chuyến hàng đầu tiên chính thức băng rừng lội suối, vượt Trường Sơn theo phương thức tuyệt đối bí mật. Sau 8 ngày đêm, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 đã bàn giao hàng hóa (chủ yếu là vũ khí) cho Khu 5. Với phương châm “địch cứ đánh, ta cứ đi”, bộ đội công binh, thanh niên xung phong là lực lượng tại chỗ luôn bảo đảm thông suốt tuyến đường cho bộ đội vận tải cơ động.

Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh hiện trưng bày bảng thành tích của anh hùng đầu tiên của Bộ đội Trường Sơn: Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Viết Sinh. Trong 6 năm gùi hàng hóa trên đường Trường Sơn núi non hiểm trở, trập trùng đèo dốc, ông Sinh đã mang được hơn 55 tấn hàng trên lưng, cáng hàng trăm thương binh và đi qua quãng đường có tổng chiều dài 41.025km.

Khỏi phải nói những khó khăn, vất vả, nguy hiểm của bộ đội Trường Sơn. Trọng điểm A.T.P (A.T.P là tên gọi tắt của cua Chữ A, ngầm Ta Lê và đèo Phu La Nhích) trên tuyến đường 20-Quyết Thắng thuộc địa phận huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trở thành “tọa độ lửa”, “chảo lửa”, “túi bom”. Theo số liệu của Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, tại cua Chữ A, địch đánh phá 3.020 trận (có 270 trận B-52).

Ngầm Ta Lê và đèo Phu La Nhích địch đánh hơn 10.000 lần (2.450 lần B-52). Bình quân mỗi cán bộ, chiến sĩ bộ đội và thanh niên xung phong (TNXP) ở đây chịu đựng 1.000 quả bom các loại. Trong 11 năm khảo sát mở đường, chiến đấu bảo đảm giao thông tại Đường 20-Quyết Thắng, 1.088 người đã hy sinh và hàng trăm người bị thương trong tổng số hơn 8.000 lượt cán bộ, chiến sĩ, TNXP tham gia mở đường và chiến đấu trên tuyến đường này... Như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Đường 20 là một kỳ công, một kỳ tích và một kỳ quan vì độc lập, tự do của chiến sĩ và TNXP đã làm nên”.

Kỳ tích đường xăng ngầm dưới “mưa bom bão đạn” Trường Sơn

Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu - nguyên Cục trưởng Cục Kinh tế/Bộ Quốc phòng, nguyên kỹ sư thiết kế, thi công đường ống xăng dầu Trường Sơn: “Khi tuyến Đường Hồ Chí Minh chuyển sang vận tải bằng cơ giới thì xăng dầu trở thành nhu cầu cực kỳ thiết yếu. Nhưng do địch đánh phá hết sức ác liệt nên hầu hết các xe chở xăng đều không thể vượt qua các trọng điểm.

Tháng 4/1968, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên điện báo về Bộ: Do thiếu xăng, xe phải ngừng hoạt động. Nếu không chuyển kịp xăng và lương thực vào, có nguy cơ hàng vạn bộ đội bị đói. Để khắc phục tình trạng này, hậu phương đã tìm mọi cách, phát huy mọi sáng kiến: Làm đường ống dẫn xăng bằng thân cây lồ ô, kiệu các phuy xăng qua trọng điểm, lót ni lông vào ba lô để gùi xăng, vần phuy xăng dọc suối… Tất cả những biện pháp đó đều không mang lại hiệu quả đáng kể mà tổn thất rất lớn. Việc tiếp xăng cho tuyến vận tải cơ giới xem như bế tắc”. 

Giữa năm 1967, trong một lần dự diễn tập quân sự của khối Warszawa, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện phát hiện quân đội Liên Xô trang bị cho cấp quân đoàn bộ đường ống dã chiến loại có đường kính 100mm, mỗi bộ dài 100km và 12 trạm bơm đẩy.

Ông đặt ngay vấn đề xin viện trợ và được bạn đồng ý. Bộ đường ống dã chiến nói trên dùng cho cấp chiến dịch, chỉ sử dụng 7-10 ngày là tháo dỡ, nhưng ta lại dùng cho vận tải chiến lược, tuyến ống có thể tồn tại suốt thời gian còn lại của chiến tranh.

Tính từ khi “đặt chân” lên tuyến vận tải quân sự Trường Sơn đến ngày toàn thắng, bộ đội đường ống Trường Sơn đã thi công, quản lý, vận hành 1.660km tuyến ống (gồm cả tuyến nội bộ kho), 60 kho xăng với trữ lượng 32.000m3.

Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu tự hào: “Đường ống xăng dầu như một dòng sông mang lửa. Nó có thể bùng cháy khi gặp một tia lửa nhỏ, vậy mà nó đã vượt qua hàng nghìn cây số dưới “mưa bom bão đạn” để tiếp xăng cho các đoàn xe trên Đường Hồ Chí Minh và đưa xăng vào tận Nam Bộ. Bởi vậy, xét trên một góc nhìn khác, nó mang trong mình ngọn lửa căm thù và quyết tâm chiến đấu của những người lính xăng dầu”.

Bộ đội đường ống thực sự xứng đáng với đánh giá của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên: “Nếu Đường Trường Sơn là huyền thoại thì đường ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại đó”.

Đến cuối cuộc chiến tranh, chỉ riêng Bộ đội Trường Sơn đã lên đến 100.495 người. Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm là vận chuyển chi viện chiến lược, Bộ đội Trường Sơn đã chiến đấu “trên 2.500 trận, diệt gần 17.000 tên địch, bắt 1.200 tên, gọi hàng hơn 10.000 tên, bắn rơi 2.455 máy bay địch, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh khác của địch”. 

Trong 16 năm, kể từ ngày ra đời đến khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử (1959-1975), các lực lượng trên Đường Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh đã đào đắp khoảng 21 triệu m3 đất đá, làm 13.418m cầu, hơn 10.000 cống với 9,5 triệu ngày công, bảo đảm chi viện cho các chiến trường 1,5 triệu tấn hàng hóa quân sự, 5,5 triệu mét khối xăng dầu, đưa đón, bảo đảm hành quân cho hàng triệu lượt người qua lại.

Đọc thêm