Theo Điều 634 Luật Dân sự 2005 có quy định về khái niệm di sản như sau: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Phần tài sản riêng của người để lại di sản cần được xác định dựa vào giấy tờ hợp pháp, tài liệu, căn cứ chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản.
Đối với tài sản nằm trong khối tài sản chung của vợ chồng thì khi một trong hai người chết đi thì một nửa trong khối tài sản chung đó sẽ là di sản thừa kế của người chết.
Đối với phần tài sản chung với người khác bằng hình thức góp vốn, được tặng cho chung, thừa kế chung, mua chung với người khác thì di sản của người chết là phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết đó trong khối tài sản chung (dựa vào những thỏa thuận có từ trước đó hoặc các giấy tờ hợp pháp do cơ quan có thẩm quyền xác nhận, ban hành).
Cũng theo luật dân sự, tại điều 163 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Vì vậy chúng ta có thể nhận thấy những đặc trưng sẽ giúp ta phân biệt được sự khác nhau giữa di sản thừa kế và những loại tài sản khác như sau :
- Thứ nhất Theo nguyên tắc một người còn sống sẽ xác lập các quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật về sở hữu đối với các loại tài sản.
Còn di sản thừa kế lại có tính đặc thù của nó, chỉ phát sinh khi có cái chết của một người nào đấy. Vì vậy tại thời điểm đó sẽ phát sinh thừa kế và các quan hệ thừa kế đối với di sản.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng để xác định được tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản . Đây cũng là điểm mấu chốt để nhận biết sự khác nhau giữa di sản và tài sản. Trước khi 1 người chết thì được gọi là tài sản nhưng sau khi mất thì được chuyển thành di sản.
- Thứ hai, di sản đó phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, nếu không thì sẽ coi như người chết không để lại di sản.
- Cuối cùng, tài sản đó phải là tài sản được phép lưu thông dân sự. Hay nói cách khác, những tài sản đó phải là tài sản hợp pháp./.