Tại cuộc họp, Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh yêu cầu Ban soạn thảo, Tổ biên tập cần rà soát, tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng theo yêu cầu của Chính phủ. Đồng thời bảo đảm sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan liên quan để dự thảo Nghị định đạt chất lượng và khả thi khi triển khi trên thực tế.
Trên cơ sở báo cáo của các cơ quan THADS địa phương, của Tổng cục THADS và thực tiễn áp dụng, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS Mai Lương Khôi cho biết có 24 vấn đề lớn cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ trong Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Trong đó, các nội dung đề nghị sửa đổi chủ yếu tập trung tới các quy định về trình tự, thủ tục THADS.
Cụ thể, về từ chối yêu cầu THADS, khoản 4 Điều 7 Nghị định quy định: “Cơ quan THADS từ chối yêu cầu THA theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 31 Luật THADS trong trường hợp bản án, quyết định không xác định cụ thể người phải THA và nghĩa vụ phải THA”. Về nguyên tắc thì cơ quan THADS phải tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án. Tuy nhiên, có một số trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ dẫn đến khi thụ lý hồ sơ, cơ quan THADS không có khả năng tổ chức thi hành. Do vậy, Nghị định số 62/NĐ-CP đã bổ sung quy định cơ quan THADS từ chối đơn yêu cầu THA khi bản án, quyết định không xác định cụ thể người phải THA, nghĩa vụ phải THA.
Song, trên thực tế nhiều vụ việc chỉ cần 1 tiêu chí “không xác định được người phải THA” hoặc “không xác định được nghĩa vụ phải THA” là đã không tổ chức THA được. Do đó, các cơ quan THADS đề xuất sửa đổi khoản 4 Điều 7 Nghị định theo hướng: Cơ quan THADS từ chối yêu cầu THA theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 31 Luật THADS trong trường hợp bản án, quyết định “không xác định được người phải THA” hoặc “không xác định được nghĩa vụ phải THA”.
Liên quan tới ủy quyền xác minh điều kiện THA, khoản 2 Điều 9 Nghị định đã bổ sung quy định về ủy quyền xác minh, nhưng chưa quy định rõ việc xử lý trong trường hợp nếu bên nhận ủy quyền không trả lời hoặc trả lời quá thời hạn, dẫn đến việc chậm trễ trong tổ chức THA. Do đó, cần sửa đổi theo hướng: Trong trường hợp ủy quyền xác minh, nếu bên được ủy quyền không trả lời hoặc trả lời quá thời hạn, dẫn đến gây hậu quả thiệt hại cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải bồi thường theo quyết định của người có thẩm quyền (nếu có).
Về vụ việc chưa có điều kiện thi hành đưa vào sổ theo dõi riêng, theo quy định tại Khoản 5, 6 Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP thì những trường hợp người phải THA chưa có điều kiện thi hành, sau 2 lần xác minh vẫn chưa có điều kiện thi hành thì cơ quan THADS chuyển những vụ việc đó sang sổ theo dõi riêng. Đối với loại việc này, cơ quan THADS đã cố gắng thực hiện các trình tự, thủ tục luật định nhưng vẫn không có kết quả, đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành nhưng vẫn phải thống kê, báo cáo là vụ việc đang tổ chức thi hành hàng năm… dẫn đến tình trạng vừa không phản ánh được đầy đủ, toàn diện về công tác THADS nhưng lại vừa gây ra sự chồng chéo trong quản lý, khai thác số liệu.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều khoản này thì việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA. Như vậy, trước khi có “thông tin mới” về điều kiện của người phải THA thì chưa quy định rõ việc Chấp hành viên có tiến hành việc xác minh lại điều kiện THA hay không dẫn đến khi áp dụng mỗi địa phương thực hiện khác nhau không thống nhất.
Do đó, các cơ quan THADS địa phương đề nghị cần quy định sửa đổi theo hướng: Đối với những vụ việc chưa có điều kiện thi hành đã được chuyển sang sổ theo dõi riêng thì được thống kê riêng theo quy định tại khoản 5 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA. Đối với những vụ việc đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành nhưng chưa đủ điều kiện chuyển sang sổ theo dõi riêng thì cơ quan THADS tiếp tục xác minh tổ chức thi hành và báo cáo thống kê theo quy định.
Về thông báo thi hành án, tại khoản 2 Điều 12 Nghị định quy định: “Trường hợp đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu được nhận thông báo bằng điện tín, fax, email hoặc hình thức khác thì việc thông báo trực tiếp có thể được thực hiện theo hình thức đó nếu không gây trở ngại cho cơ quan THADS”. Trên thực tế hiện nay, rất nhiều vụ việc, theo yêu cầu của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Chấp hành viên đã thực hiện quy định trên và thông báo việc THA cho đương sự qua điện thoại. Tuy nhiên, điều luật chưa quy định về việc thông báo này cần thể hiện bằng hình thức cụ thể như thế nào để lưu hồ sơ THA nên Chấp hành viên phải đối diện với tình trạng một số trường hợp, sau khi nhận được thông báo, những đối tượng này lại khiếu nại cho rằng họ chưa nhận được các văn bản đã được thông báo.
Do đó, các cơ quan THADS đề nghị bổ sung thêm quy định về việc Chấp hành viên tiến hành lập biên bản và giải thích cho người yêu cầu biết về việc không tiến hành tiến hành thủ tục tống đạt văn bản hoặc sẽ sao lưu tài liệu thể hiện việc đã thông báo để lưu hồ sơ và chi phí của việc sao lưu do người yêu cầu chịu.