Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

TS. Bùi Xuân Việt: “Tiếp tục cải cách và đổi mới thể chế để tạo động lực phát triển”

(PLVN) - Nước ta hiện đang đứng trước những thách thức rất lớn của yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Do vậy, cùng với việc tăng cường ban hành luật, cần phải tiếp tục xây dựng Nhà nước trong sạch, ổn định chính trị, công chức chuyên nghiệp, tinh thông về nghiệp vụ để bảo đảm cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc.

Chuyên mục “Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” xin giới thiệu bài viết “ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” của TS. Bùi Xuân Việt, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh gửi tới Báo Pháp luật Việt Nam.

TS. Bùi Xuân Việt, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

TS. Bùi Xuân Việt, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Tổ chức thực hiện đúng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 2013, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; bám sát tình hình thực tiễn đất nước và thế giới; kế thừa những kết quả về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong thời gian qua, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế; từ đó xác định đúng các trọng tâm và đề ra những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp thực tiễn, có đổi mới và định hướng cho thời gian dài, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đề án đã hoàn thành theo đúng tiến độ và bảo đảm chất lượng, được Bộ Chính trị nhất trí cao, trình Ban Chấp hành Trung ương thông qua và ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022 về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam ở Việt Nam hiện nay là hoàn toàn đúng đắn hợp qui luật phát triển của đất nước và thế giới

Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và Nhà nước.

Tại Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Xuất phát từ bản chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Do vậy những nét đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền ở việt Nam theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022 được biểu thị như sau:

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013, thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với hệ thống chính trị của Việt Nam khi Nhà nước được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền. Từ đó càng đề cao vị trí bất biến và vai trò quan trọng của Đảng, là kim chỉ nam đối với mọi hoạt động trong công cuộc đi lên xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; được tổ chức, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.

Thứ ba, quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.

Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân và thể nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội.

Thứ tư, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.

Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013, là đặc trưng mang tính phổ biến, xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Đó là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; thực hiện đường lối hòa bình, hữu nghị với nhân dân các dân tộc và các nhà nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi; đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.

Thứ năm, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng.

Trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngoài việc tiếp tục khẳng định cơ chế phân công, phối hợp của ba nhánh quyền, Đảng ta còn muốn tập trung nhấn mạnh cơ chế “kiểm soát hiệu quả” trong thực thi quyền lực nhà nước cần được tăng cường hơn nữa, cũng như cần phát huy hơn nữa ý thức, trách nhiệm của toàn thể nhân dân trong kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước

Thứ sáu, hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán

Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân được pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.

Thứ bảy, tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Đây cũng là một đặc trưng mới được đề cập khi bàn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng là văn bản đầu tiên ghi nhận và xác định đặc trưng này thuộc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ việc cụ thể hóa quan điểm của Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Những đề xuất, kiến nghị

Trong bối cảnh thế giới hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế đã đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh tế.

Thời gian tới, nhằm hoàn thiện xây dựng pháp luật kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần chú trọng một số nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa những mục tiêu về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường vào thể chế, chính sách pháp luật nhà nước. Cùng với đó, giải quyết hài hòa giữa vai trò điều tiết của Nhà nước trong đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa với sự vận động theo quy luật kinh tế khách quan của thị trường. Đây là một trong những mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường rất cần sự mềm dẻo, linh hoạt và am hiểu thị trường mới có thể điều tiết nền kinh tế cho hợp qui luật.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định: Nhà nước ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức, xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo ra khung khổ pháp luật cho sự hình thành, hoạt động và định hướng cho hoạt động của các thị trường, các tổ chức xã hội.

Đồng thời, Nhà nước sử dụng các lực lượng kinh tế của mình tham gia vào thị trường và bằng công tác tuyên truyền vận động, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể kinh tế, các tổ chức xã hội để tác động, định hướng, điều chỉnh hoạt động của thị trường và các tổ chức xã hội.

Song, mặt khác, ở chiều ngược lại, Nhà nước theo dõi tình hình thị trường, những biến động của giá cả, cung - cầu, đầu tư, hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường và lắng nghe ý kiến góp ý, phản ánh, phản biện của nhân dân, các tổ chức xã hội đối với luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước để nắm bắt đúng nhu cầu của xã hội, đúng thực trạng của nền kinh tế, nhất là những khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.

Đây là những cơ sở để Nhà nước điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện thể chế luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đồng thời, việc phân bổ các nguồn lực kinh tế của nhà nước (đất đai, tài nguyên, nguồn vốn, tài sản của Nhà nước) và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự giám sát của nhân dân, các tổ chức xã hội, việc phân bổ nguồn lực kinh tế của Nhà nước phải thông qua đấu thầu cạnh tranh, công khai, minh bạch, các doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ. Chỉ trừ một số hàng hóa đặc biệt thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, giá cả do Nhà nước quyết định, đối với tuyệt đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng xã hội, giá cả là do các quan hệ cung - cầu, cạnh tranh, chi phí sản xuất, các quan hệ kinh tế trên thị trường quyết định hết sức linh hoạt.

Thị trường tạo ra động lực huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Những biến động của quan hệ cung - cầu, giá cả trên thị trường là động lực để những người nắm giữ các nguồn lực quyết định đầu tư, đưa các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nào, sản phẩm nào, địa bàn nào hay rút các nguồn lực khỏi đầu tư, chuyển đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ sản phẩm này sang sản phẩm khác để có hiệu quả cao nhất.

Thị trường là yếu tố trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp một cách linh hoạt. Hàng hóa, dịch vụ sẽ được chuyển từ nơi được bán với giá thấp (cung lớn hơn cầu) sang nơi bán được giá cao (cung nhỏ hơn cầu).

Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh sản xuất, thu hẹp hoặc đình chỉ sản xuất hàng hóa dịch vụ cung đã vượt cầu chuyển sang sản xuất những hàng hóa, dịch vụ cung nhỏ hơn cầu để có hiệu quả cao.

Những doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh nào thích ứng được với những biến động của thị trường, tận dụng được cơ hội sẽ phát triển, ngược lại, doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh nào không theo kịp sự biến động, phát triển của thị trường sẽ thua lỗ, phá sản. Thị trường tạo cơ chế thanh lọc những doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh yếu kém, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Các tổ chức xã hội có vai trò liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên, hội viên; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của các thành viên, hội viên, bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên. Bằng những hoạt động này, các tổ chức xã hội có tác động tới sản xuất, lưu thông, trao đổi, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, tác động tới tình hình thị trường.

Các tổ chức xã hội có thể phát hiện, đấu tranh với các hoạt động gian lận, tình trạng độc quyền, đầu cơ, thao túng thị trường, cạnh tranh không lành mạnh, làm méo mó thị trường...

Đồng thời, các tổ chức xã hội đại diện cho các thành viên, hội viên phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, hội viên, của các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các tầng lớp nhân dân với Nhà nước; tham gia đóng góp ý kiến, phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước để luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước được điều chỉnh, bổ sung kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của đất nước, lợi ích của nhân dân, không bị “lợi ích nhóm” chi phối; tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong thực thi chức năng nhiệm vụ, bảo đảm luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước được thực thi nghiêm túc, đúng đắn, có hiệu quả, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Thứ hai, tiếp tục cải cách và đổi mới thể chế để tạo động lực phát triển, phấn đấu đến năm 2025 cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, sớm được công nhận là nền kinh tế thị trường. Trong thời gian tới, cần thúc đẩy những yếu tố có khả năng tạo ra giá trị gia tăng lớn của sản xuất như: Công nghệ đổi mới sáng tạo, tri thức, khoa học và công nghệ, kinh tế công nghệ, nông nghiệp công nghiệp và quản lý tiên tiến…

Việc cải cách thể chế pháp luật đáp ứng yêu cầu về nâng cao năng lực cạnh tranh và quản trị quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp nhà nước với các Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa Doanh nghiệp trong nước với Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giữa Doanh nghiệp trong nước với Doanh nghiệp nước ngoài; Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để bảo đảm cho Doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường…

Thứ ba, khẩn trương khắc phục những điểm tồn tại trong công tác xây dựng pháp luật kinh tế tồn tại trong nhiều năm qua như: Ban hành hướng dẫn thi hành pháp luật kinh tế vẫn còn chậm; Tình trạng sửa đổi, bổ sung luật quá nhiều lần hoặc một nội dung mà quá nhiều luật điều chỉnh, hạn chế những điểm chồng chéo khi thực thi chính sách mà có quá nhiều hướng dẫn khiến Doanh nghiệp khó nắm bắt và áp dụng; Nâng cao chất lượng ban hành chính sách pháp luật kinh tế đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước pháp quyền…

Thứ tư, phát huy hiệu quả những chính sách của Nhà nước trong điều hành chính sách vĩ mô và phối hợp giải quyết các vấn đề quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, để đảm bảo đổi mới thành công, hệ thống pháp luật cần phải đổi mới đáp ứng được thực tiễn đất nước, do vậy cần tuyển chọn những nhà hoạch định và làm chính sách tốt, có cơ chế thoả đáng tương xứng, xoá bỏ những rào cản không hợp lý để tạo điều kiện tốt nhất trong việc vận hành và tổ chức thực hiện, được tổ chức hợp lý, thực hành dân chủ, có khả năng huy động và quản lý mọi nguồn lực của đất nước.

Nước ta hiện đang đứng trước những thách thức rất lớn của yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; Khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường; Phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo công bằng xã hội. Do vậy, cùng với việc tăng cường ban hành luật, cần phải tiếp tục xây dựng Nhà nước trong sạch, ổn định chính trị, công chức chuyên nghiệp, vững mạnh tinh thông về nghiệp vụ để bảo đảm cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc.

Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác dự báo, nghiên cứu lý luận phục vụ việc xây dựng và hoạch định chính sách và pháp luật đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Hạn chế tình trạng nhiều quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong phân bổ nguồn lực, quản lý giá hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu và chưa bảo đảm cạnh tranh bình đẳng…

Thứ sáu, trong hoạt động xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế, cần nghiên cứu, tiếp thu các quy định trong pháp luật của các nước, vì những vấn đề mà Việt Nam đang tiếp cận đã từng được cộng đồng quốc tế nghiên cứu, giải quyết bằng pháp luật một cách thỏa đáng và khoa học. Đẩy nhanh tiến trình đào tạo hoặc cử người đi nghiên cứu và đào tạo luật tại các nước có trình độ phát triển góp phần làm cho pháp luật Việt Nam trở nên tương thích hơn với pháp luật của các nước trên thế giới. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.

TS. Bùi Xuân Việt

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 97

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H, 2021, t.1, tr.129, 130, 240, 241; t.2, tr.125, 126, 127. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H, 2021, t.1, tr.130, 131, 132, 223, 224; t.2, tr.97, 98, 99. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H, 2021, t.1, tr.132-135, 222-225, 237, 238, 282, 283; t.2, tr.98-103.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015) và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016-2020)

4. Nguyễn Đức Minh, Thực trạng xây dựng pháp luật kinh tế và những vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện

5. Dương Đăng Huệ (2017), Tiếp tục hoàn thiện pháp luật kinh tế, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Đọc thêm