Tự ý sử dụng thuốc: Đùa với tử thần!

 Theo quy định, khi mua thuốc phải mua và uống theo hướng dẫn của thầy thuốc. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít người vẫn dùng thuốc theo lời mách bảo của người khác, dùng lại đơn thuốc cũ, thậm chí tự chẩn đoán bệnh rồi mua thuốc về điều trị mà không hề biết rằng mình đang đùa với tử thần.

Theo quy định, khi mua thuốc phải mua và uống theo hướng dẫn của thầy thuốc. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít người vẫn dùng thuốc theo lời mách bảo của người khác, dùng lại đơn thuốc cũ, thậm chí tự chẩn đoán bệnh rồi mua thuốc về điều trị mà không hề biết rằng mình đang đùa với tử thần.

Tự ý sử dụng thuốc...

Chỉ khi nào cảm thấy mình mắc bệnh hiểm nghèo, người bệnh mới chịu đến các cơ sở y tế khám chữa bệnh và dùng thuốc theo đơn bác sỹ kê, còn đa số là tự điều trị tại nhà.

Bà Ngô Thị Bình (ở Định Công, Hà Nội) cho biết, mỗi khi bà hay ai đó trong gia đình bị đau đầu, cảm cúm hay bị ho, bà thường ra hiệu thuốc miêu tả các triệu chứng của bệnh rồi được người bán hàng tư vấn mua thuốc và hướng dẫn cách uống. Và cứ thế, nếu thuốc nào đã dùng trong thời gian trước đó có hiệu quả rồi thì lần sau bà cứ mua loại thuốc đó về uống nếu bị mắc các bệnh tương tự.

Rồi bà hồn nhiên cho hay, khi như bị đau đầu, bà thường uống Paracetamol, lúc thì viên nén, lúc thì viên sủi. Bị cảm cúm thì bà dùng Decolgen, cảm xuyên hương. Với kinh nghiệm trong việc dùng thuốc như thế, bà còn “tư vấn” cho hàng xóm dùng thuốc mỗi khi người nhà họ bị ho, sốt; thậm chí mua hộ thuốc và hướng dẫn họ sử dụng.

Cũng vì ngại đưa con đi khám bác sỹ, khi nào con có những triệu chứng viêm phế quản (ho, sốt, khò khè, khó thở...), chị Phạm Thanh Hà, Vĩnh Phúc lại mang đơn thuốc lần trước bác sỹ đã kê cho ra hiệu thuốc mua về cho con uống. Uống lần đầu không đỡ, chị lại đổi thuốc lần hai, lần ba, chứ nhất quyết không đưa con đến bệnh viện. Chồng chị hay bị nổi mẩn đỏ sau mỗi lần uống bia, rượu, chị cũng tự ý đoán bệnh, kê đơn rồi ra hiệu thuốc mua thuốc dị ứng về cho chồng uống...

Và những nguy cơ...

Theo BS.Hoàng Cương (Ban Thông tin Tuyên truyền, Bệnh viện Mắt Trung Ương), hậu quả của việc tự ý dùng thuốc là rất lớn. Có trường hợp bệnh không khỏi mà người bệnh còn có thể còn bị những tai biến, tác dụng phụ do thuốc gây nên. Thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Có những tác dụng phụ hồi phục sau khi ngừng thuốc, nhưng cũng có những tác dụng phụ không hồi phục.

Đơn cử như trong lĩnh vực nhãn khoa, BS.Cương kể, từ thời chiến tranh, nhiều bệnh nhân (BN) bị đau mắt đỏ nên đã nhỏ thuốc Argryzol ròng rã nhiều tháng liền. Ngờ đâu lòng trắng bị nhuộm đen không thể hồi phục, biến đôi mắt thành một “hố đen” biết nhìn. Không chỉ có vậy, có BN còn lấy thuốc Atropin nhỏ mắt đem uống để chữa đau bụng đã gây nhiễm độc chết người bởi Atropine nhỏ mắt có nồng độ độc chất rất cao (1- 4 gr/100ml) rất dễ gây nhiễm độc nếu dùng đường uống.

Ngày nay, khi thuốc nhãn khoa ngày càng đa dạng và sẵn có thì người bán thuốc càng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Điều này dẫn đến những tai biến do tự sử dụng các sản phẩm có corticoide ngày càng phổ biến hơn. Điều tệ hại là những tai biến gây mù loà rất khó cứu vãn: Loét thủng giác mạc do bội nhiễm, glôcôm, đục thể thủy tinh...

Một số sản phẩm điều trị glôcôm còn có độc tính trên hệ tim mạch và hô hấp. Nếu dùng sai liều, sai chỉ định có thể gây chậm hoặc ngừng tim, phát sinh cơn hen hoặc hen sẽ có xu hướng tăng nặng. Ngược lại một số thuốc điều trị bệnh tiêu hoá, tâm thần kinh, tim mạch cũng có thể gây ra những tai biến trên mắt như xuất huyết, gây cơn glôcôm cấp, nhìn mờ thoáng qua...

TS.Nguyễn Hoàng Anh (Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc & Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - DI&ADR) cho biết thêm, nhắc đến thuốc, người ta không chỉ quan tâm đến chất lượng và hiệu quả chữa bệnh mà còn chú ý đặc biệt đến tính an toàn của nó. Tính an toàn của thuốc liên quan chặt chẽ đến phản ứng có hại của thuốc (ADR), một vấn đề nổi cộm, có tính chất phổ biến ở mọi quốc gia, được đánh giá là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở BN, làm kéo dài thời gian nằm viện và làm tăng chi phí điều trị.

Phản ứng có hại của thuốc có thể phân loại dựa trên độ nghiêm trọng của chúng. Theo qui định của Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ, một ADR được coi là nghiêm trọng khi xảy ra một trong các hậu quả sau trên BN: Tử vong, đe dọa tính mạng, đòi hỏi phải nhập viện, gây ra các thương tật tạm thời hoặc vĩnh viễn, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, gây dị dạng bẩm sinh, hoặc đòi hỏi sự can thiệp, trợ giúp y tế thường xuyên do các thương tật cho BN.

Tuy nhiên, ước tính có đến 25% ADR có thể chủ động phòng tránh được. Cụ thể, để phòng tránh và hạn chế có hiệu quả các ADR: Đối với BN cần hạn chế việc sử dụng thuốc không theo chỉ dẫn của cán bộ y tế; thông báo cho bác sĩ tiền sử dị ứng với thuốc của mình trong mỗi lần khám bệnh; ngừng ngay thuốc và thông báo kịp thời cho bác sĩ nếu xuất hiện những biểu hiện bất thường trong quá trình sử dụng thuốc.

Đối với cán bộ y tế: Phải xác định được các yếu tố nguy cơ trên mỗi đối tượng BN cụ thể; cân nhắc lựa chọn thuốc cho BN; sử dụng thuốc đúng qui trình; theo dõi, giám sát chặt chẽ các thuốc có nguy cơ cao trong quá trình điều trị, dặn dò tham vấn đầy đủ cho BN về thuốc trong đó có ADR của thuốc là biện pháp phòng tránh tích cực ADR. Việc phát hiện và báo cáo ADR, đặc biệt là các ADR nghiêm trọng, các ADR của các thuốc mới lưu hành trên thị trường cho hệ thống theo dõi ADR toàn quốc cũng là biện pháp quan trọng giúp cung cấp thông tin cho việc phòng tránh và giảm thiểu tác hại của ADR do thuốc gây ra.

Đối với hệ thống y tế: Việc xây dựng và phát triển hệ thống theo dõi và đảm bảo an toàn thuốc (Cảnh giác Dược), hoạt động có hiệu quả với đầu mối là Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc là yếu tố quan trọng giúp phòng tránh tích cực ADR và giảm thiểu các gánh nặng và hậu quả do ADR gây ra.

Trà Long

Đọc thêm