Hiện nay, đã có thuốc để điều trị bệnh bạch hầu, tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh. Ngay cả khi phát hiện điều trị sớm vẫn có thể gây tử vong với tỷ lệ 3%, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới 15 tuổi. Theo khuyến cáo từ các chuyên gia y tế thì tiêm vắc xin bạch hầu vẫn là biện pháp phòng ngừa tốt nhất hiện nay.
Bé gái tử vong vì bạch hầu
Chiều 3-9 theo thông tin từ sở y tế Đắc Lắc, một bé gái sinh năm 2013, trú tại buôn H’ring, xã Ea Hding, huyện Cư M’gar đã tử vong sau 10 ngày điều trị vì bệnh bạch hầu, đây cũng là trường hợp đầu tiên trong năm nay.
Hiện tại ba người khác gồm bố mẹ cháu và một bé hàng xóm dương tính với bệnh, đang được cách ly điều trị. Khoảng 7.000 người từ 7 đến 45 tuổi ở buôn H’ring trong danh sách cần tiêm vắcxin phòng ngừa, đến sáng 4/9 đã có hơn 1.000 người đã được tiêm phòng ngừa.
Để tránh bạch hầu lây lan thành dịch, Cục Y tế Dự phòng khuyến cáo địa phương thống kê tất cả trường hợp nghi nhiễm bệnh, có biểu hiện sốt, đau họng, viêm họng, đồng thời lấy mẫu xác định bệnh, sau đó sàng lọc, cách ly điều trị ở khu riêng biệt. Gia đình, kể cả nhân viên y tế đã tiếp xúc với bệnh nhân dương tính với bạch hầu, phải uống thuốc đặc trị, tiêm vắcxin phòng bệnh. Trẻ em chưa được tiêm chủng, người lớn không rõ lịch sử tiêm cần được rà soát và tiêm vắcxin.
Năm 2018 tại Kon Tum bạch hầu cũng bùng phát tại một số nơi trên địa bàn.
Trong đó có hai trẻ đã tử vong, kết quả xét nghiệm dương tính với vi khuẩn bạch hầu. Hai trẻ gồm một bé trai (14 tuổi, trú tại thị trấn Đăk Tô, huyện Đăk Tô) tử vong hồi tháng 5-2018 và một bé gái (5 tuổi, trú tại xã Đăk Pxi, huyện Đăk Hà) tử vong vào cuối tháng 9-2018.
Tại Quảng Nam cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 2017 ghi nhận, bảy học sinh một trường tiểu học ở huyện Nam Trà My, Quảng Nam, được xác định mắc bệnh bạch hầu, một bé đã tử vong. Cũng tại địa phương này cuối năm 2016, một ổ dịch bạch hầu xuất hiện ở trường cấp ba huyện Tây Giang khiến hai học sinh tử vong. Tháng 7/2015, một ổ dịch bạch hầu được phát hiện tại xã Phước Lộc, huyện Phước Sơn, ba người chết.
Hiện nay nhờ tiêm chủng nên số ca bạch hầu trên cả nước không nhiều nhưng vẫn xảy ra rải rác tại một số nơi.
Biểu hiện và cách phòng ngừa
Người mắc bệnh bạch hầu thường có những triệu chứng điển hình như sốt nhẹ, đau họng, ho, khàn tiếng, chán ăn. Sau 2-3 ngày, xuất hiện giả mạc mặt sau hoặc hai bên thành họng, có màu trắng ngà, xám hoặc đen. Giả mạc dai, dính, dễ chảy máu.
Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để phát hiện bệnh. Bệnh nhân có thể có dấu hiệu khó thở, khó nuốt. Bệnh có thể qua khỏi hoặc trở nên trầm trọng và tử vong trong vòng 6-10 ngày. Một số trường hợp bệnh nặng không có biểu hiện sốt cao nhưng có dấu hiệu sưng to cổ, khàn tiếng, khó thở, rối loạn nhịp tim, liệt.
Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.
PGS, TS Trần Đắc Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết: Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên. Trước đây, bệnh lưu hành khá phổ biến ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, kể từ khi vắc-xin phòng bệnh bạch hầu được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, bệnh chỉ xuất hiện lác đác với những người chưa được tiêm vắc-xin phòng bệnh hoặc tiêm nhưng không đủ liều.
Cũng theo ông Trần Đắc Phu, hiện nay các bệnh được dự phòng bởi vắc-xin 6 trong 1 hay 5 trong 1 được khuyến cáo tiêm cho trẻ nhỏ, bao gồm sáu bệnh: bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm màng não do Hib, viêm gan B, sốt bại liệt (với loại 5 trong 1 sẽ có một trong hai vắc-xin ngừa viêm gan B hoặc sốt bại liệt tùy chủng loại).
Nếu tiêm đúng và đủ vắc-xin này, phụ huynh có thể yên tâm trẻ sẽ có miễn dịch suốt đời với bệnh bạch hầu. Đối với người lớn, nếu trước đây đã tiêm đủ mũi 3 trong 1 thì cũng được miễn dịch suốt đời...
Trên thực tế, nhiều người dân chưa tiêm đúng và tiêm đầy đủ các loại vắc-xin phòng chống bệnh bạch hầu, chính vì vậy khi đã xuất hiện ổ dịch bạch cầu khiến nhiều người mắc bệnh cần giám sát chặt chẽ những trường hợp tiếp xúc với bệnh nhân dương tính bạch hầu; tăng cường công tác truyền thông đến người dân về mức độ nguy hiểm của bệnh bạch hầu để chủ động phòng tránh.
Đối với việc thiết lập khu cách ly nên chuẩn bị khu cách ly khép kín từ khâu khám, chẩn đoán đến điều trị để hạn chế thấp nhất tình trạng lây nhiễm chéo; tại mỗi phòng cách ly nên bố trí dung dịch sát khuẩn và khuyến cáo bệnh nhân sử dụng hằng ngày. Với những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu, sau khi điều trị tại bệnh viện từ ba đến năm ngày mà không thấy dấu hiệu của bệnh bạch hầu thì nên cho về nhà tránh tình trạng quá tải cho các bệnh viện.
Bên cạnh đó cần nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục sức khoẻ thường kỳ, cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh bạch hầu cho nhân dân, nhất là cho các bà mẹ, thầy cô giáo biết để họ phát hiện sớm bệnh, cách ly, phòng bệnh và cộng tác với cán bộ y tế cho con đi tiêm vắc-xin bạch hầu đầy đủ.
Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh. Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.