Việt Nam có nhiều dư địa cho đầu tư giáo dục chất lượng cao

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Kết quả nghiên cứu của Saville Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bình Dương được công bố năm 2023 cho thấy một bức tranh về sự phát triển của các trường tư thục và những thách thức của hệ thống giáo dục hiện tại trong bối cảnh nhu cầu về giáo dục chất lượng ngày càng tăng.
Một nhóm học sinh Hà Nội tham gia Ngày hội Công nghệ thông tin. (Ảnh: TTXVN)
Một nhóm học sinh Hà Nội tham gia Ngày hội Công nghệ thông tin. (Ảnh: TTXVN)

Học tập là nền tảng của văn hóa Việt Nam

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (giai đoạn 2021 - 2030) ưu tiên phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và Chính phủ đang nỗ lực nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động để đảm bảo lực lượng lao động có năng suất lớn trong tương lai. Trước nhu cầu đó và yêu cầu xã hội hóa hoạt động giáo dục - đào tạo, giáo dục tư có sự tăng trưởng đáng kể. Kể từ năm 2018, số trường quốc tế và song ngữ tại Hà Nội tăng 4%, Thành phố Hồ Chí Minh 2% và Bình Dương 6%. Nhu cầu về giáo dục chất lượng cao ngày càng tăng và các trường tư thục thu hẹp khoảng cách giữa chương trình giảng dạy quốc tế và văn hóa Việt Nam.

Các trường mẫu giáo có số lượng nhiều nhất ở cả hai khu vực. Năm 2022, có 1.342 trường ở Thành phố Hồ Chí Minh, 1.155 trường ở Hà Nội và 434 trường ở Bình Dương. Hầu hết các trường tư thục ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đều là trường liên cấp (từ mẫu giáo đến lớp 12). Ở Bình Dương, trường mẫu giáo có tỷ trọng lớn nhất.

Trường trung học phổ thông là trường tư đắt nhất trong ba khu vực được nghiên cứu với hơn 20.000 USD mỗi học sinh mỗi năm. Đối với các trường quốc tế ở cả ba khu vực, trường mẫu giáo có chi phí phải chăng nhất nhưng vẫn đạt mức trung bình 10.794 USD/học sinh/năm. Học sinh trường quốc tế đa số là người nước ngoài, nhưng trường song ngữ chủ yếu là học sinh Việt Nam. Các trường song ngữ có chi phí phải chăng hơn nhưng vẫn cung cấp nền giáo dục chất lượng cao.

Trong Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) năm 2024, Việt Nam đứng thứ 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023, nhưng Chỉ số về nguồn nhân lực chỉ đứng thứ 73, giảm 2 bậc so với năm 2023. Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam tính đến hết năm 2023 có 52,4 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên. Trong đó, lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ: 14,1 triệu người, chiếm 27,6%; lao động chưa qua đào tạo: 38 triệu người, chiếm 72,4%.

Theo các chuyên gia, nếu Việt Nam muốn trở thành một nền kinh tế công nghệ cao, công cuộc đổi mới đạt mục tiêu thì cần phải tránh tình trạng lực lượng lao động thiếu hụt kỹ năng trong tương lai. Do đó, Chính phủ đang cải thiện hệ thống giáo dục. Chiến lược phát triển đến năm 2030 có mục tiêu cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận, đồng thời giáo dục sẽ sử dụng các công cụ khoa học, công nghệ và kỹ thuật số cùng với nguồn nhân lực có chất lượng để thúc đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế trong tương lai.

Phát triển hệ thống giáo dục tư sẽ tăng nguồn cung nhiều hơn các sản phẩm giáo dục chất lượng cho xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi số tiền đầu tư vào giáo dục không phải lúc nào cũng được xử lý hiệu quả. Vào tháng 10 năm 2022, các bậc phụ huynh đã đệ đơn khiếu nại một trung tâm tiếng Anh nổi tiếng về việc hoàn lại khoảng 29.000 USD sau khi dịch vụ của Trung tâm này không đáp ứng được các yêu cầu cơ bản. Trong và sau dịch COVID-19, nhiều trường ngoại ngữ đóng cửa không dấu vết, khiến khách hàng trắng tay.

Thu hút đầu tư xã hội vào giáo dục

Theo trang Asia Briefing, Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân vào ngành Giáo dục. Năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 35/NQ-CP (“Nghị quyết 35”), tập trung huy động các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo từ năm 2019 đến năm 2025. Theo Nghị quyết này, Việt Nam đặt mục tiêu cơ sở giáo dục ngoài công lập chiếm 8,75% tổng số cơ sở giáo dục vào năm 2020 và 13,5% vào năm 2025.

Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ đã vạch ra các bước nhằm cải thiện môi trường đầu tư vào giáo dục, bao gồm tạo điều kiện thuận lợi cho các thủ tục cấp thị thực và giấy phép lao động để thu hút trí thức, doanh nhân và doanh nghiệp nước ngoài, cả trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, các chuyên gia hiện đang kêu gọi đẩy nhanh việc thực hiện để đạt được các mục tiêu chỉ còn chưa đầy hai năm nữa là đến thời hạn. Ví dụ, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến đầu năm 2022, Việt Nam có 67 cơ sở giáo dục đại học tư thục, chiếm 27,68% tổng số - thấp hơn 0,32 điểm phần trăm so với mục tiêu năm 2020. Dữ liệu này không bao gồm các trường đại học và học viện trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng.

Học sinh trung học phổ thông của Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Học sinh trung học phổ thông của Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Ngành giáo dục phổ thông của Việt Nam có tiềm năng đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, được thúc đẩy bởi nhu cầu ngày càng tăng, các chính sách hỗ trợ và ưu đãi thuế. Nghị định số 124/2024/NĐ-CP ngày 05/10/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và Nghị định số 125/2024/NĐ-CP ngày 05/10/2024 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục (có hiệu lực từ ngày 20/11/2024), tăng cường giám sát cũng như cân nhắc về hoạt động và đầu tư.

Giáo dục tư nhân được cho là góp phần mang lại nhiều cơ hội học tập và đào tạo nguồn lao động chất lượng. Nó cung cấp các lớp học có quy mô nhỏ hơn (ít học sinh hơn), giáo viên nước ngoài và các chiến lược giáo dục nhằm thúc đẩy phát triển học thuật và thế mạnh của từng cá nhân. Hệ thống giáo dục tư hướng tới các phương pháp Socrates, trong đó nhấn mạnh tư duy phê phán và đặt câu hỏi, tạo sự chủ động và cung cấp nhiều cơ hội linh hoạt cho người học. Nhu cầu du học ngày càng tăng và các trường tư thục mang lại cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các trường đại học nước ngoài.

Tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học ở Việt Nam chiếm tỷ lệ cao cho thấy nhu cầu giáo dục - đào tạo rất rộng lớn. Năm 2019, người trong độ tuổi từ 0 đến 24 chiếm 39% dân số ở Hà Nội, 36% ở Thành phố Hồ Chí Minh và 38% ở Bình Dương. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn phát triển mạnh mẽ, kéo theo việc người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống tại Việt Nam tăng lên. Từ đó, nhu cầu học tập tại các trường quốc tế của người nước ngoài và người Việt Nam cũng tăng nhanh. Khảo sát cho thấy, hơn 50% học sinh tại các trường quốc tế là người nước ngoài. Như vậy, dòng vốn FDI ổn định sẽ hỗ trợ nhu cầu, mở ra cơ hội đầu tư vào giáo dục ở Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam tiếp tục hoạt động kinh tế tốt, có tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng, được dự báo sẽ có thêm 36 triệu người vào năm 2030. Do đó, mức thu nhập khả dụng đang được cải thiện và người tiêu dùng có nhiều tiền hơn để chi tiêu cho các dịch vụ như giáo dục tư nhân, các lớp học ngôn ngữ và đào tạo.

Giang Huynh, chuyên gia của Saville Việt Nam nhận xét: “Nhu cầu mạnh mẽ về giáo dục chất lượng cao tại thị trường trong nước thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư giáo dục tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài có kinh nghiệm trong khu vực. Có rất nhiều doanh nghiệp mong muốn đầu tư vào giáo dục ở Việt Nam”.

Để Việt Nam trở thành một nền kinh tế đổi mới và hiện đại, phải ưu tiên giáo dục. Mặc dù chi tiêu cho giáo dục đã được cải thiện trong những năm gần đây nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm. Trong đó, thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào giáo dục là rất cần thiết để giảm gánh nặng đầu tư của ngân sách mà vẫn nâng cao chất lượng giáo dục của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu về chất lượng lao động trong kỷ nguyên mới.

Đọc thêm