Báo chí là một mặt trận
Từ rất sớm trên con đường cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy sức mạnh to lớn của báo chí và chính Người đã trở thành người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận này. Trong thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng (tháng 6/1949), Bác chỉ rõ: “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung”. Dịp khác (tháng 4/1959), Người nói: Báo chí của ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ Nhân dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính quần chúng và tinh thần chiến đấu.
Nhìn lại một thế kỷ, từ viên gạch đầu tiên của nền Báo chí Cách mạng với sự ra đời tờ Thanh Niên ngày 21/6/1925, trong suốt hành trình 100 năm, Báo chí Cách mạng luôn gắn liền với từng bước đi của lịch sử dân tộc. Báo chí đã trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của cả dân tộc, trở thành lực lượng xung kích, gắn với những nhiệm vụ cụ thể mà lịch sử giao phó trong mỗi thời kỳ.
Báo Thân Ái, cơ quan ngôn luận của Hội Thân ái, Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên của Việt kiều ở Thái Lan, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập năm 1928. Bên phải trên cùng của tờ báo là các câu thơ động viên tinh thần yêu nước, như: Nhiễu điều phủ lấy giá (zá) gương/Người chung một nước thì thương nhau cùng (kùng); hoặc Thương nòi nên phải gắng công (kông), nào ai xương sắt da (za) đồng khác ai… Số 4 ra ngày 15/11/1928 trong bài “Tin nước nhà” tố cáo hành vi “cướp đất, tăng thuế” của thực dân: “…ở Trung kỳ nó đã chiếm 213 sở đồn điền […] Nó cướp thế mãi, thì dân ta chẳng những sống không đất cày mà còn đến nỗi chết không đất chôn nữa kia…”.
Sau khi thống nhất các tổ chức cộng sản (tháng 2/1930) và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu “thống nhất tư tưởng hành vi toàn Đảng”, Báo Tranh đấu ra số 1, ngày 15/8/1930. Người chỉ đạo biên tập là Trịnh Đình Cửu. Ngay trang 1, báo đăng Mấy lời tuyên cáo!, trong đó có đoạn: “Các đoàn thể và các phần tử cộng sản lẻ tẻ trong nước bây giờ đã thống nhất lại một đảng, gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế mà các cơ quan trung ương tuyên truyền của các đoàn thể xưa kia đã hết nhiệm vụ lịch sử và đã phải đình bản. Ngày nay, Báo “Tranh đấu” này ra đời làm cơ quan trung ương của Đảng để thống nhất, để hướng đạo tư tưởng và hành động cho cả toàn thể đồng chí và quần chúng lao khổ”.
![]() |
Báo chí chiến khu - Trưng bày tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam. (Ảnh: T.N) |
Sục sôi nhất có lẽ là thời kỳ chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ nguyên những tên báo ra đời đã cho thấy khát vọng giành độc lập của cả dân tộc “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”: Ngày 1/8/1941, Báo Việt Nam độc lập (cơ quan tuyên truyền của Việt Minh tỉnh Cao Bằng, do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách) xuất bản số đầu tiên; Ngày 25/1/1941, Báo Cứu quốc (cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Việt Minh) ra đời; Ngày 10/10/1942, Báo Cờ Giải phóng (cơ quan tuyên truyền cổ động của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương) xuất bản số 1…
Trong những ngày lịch sử, mùa Thu năm 1945, Báo Cứu quốc (số ra ngày 5/9/1945) bên cạnh việc đăng trang trọng bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tường thuật chi tiết cuộc mít tinh và biểu tình tại vườn hoa Ba Đình trong buổi lễ “Ngày Độc lập” còn đăng lời thề kiên quyết mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ của Chính phủ lâm thời và lời thề của quốc dân đồng bào, kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ lâm thời, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, “cùng Chính phủ giữ quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng. Xin thề!”.
Quốc hội - tờ Nhật báo “đặc biệt” chỉ ra trong kỳ tổng tuyển cử, phục vụ nhiệm vụ của kỳ bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới. Số 1 ra ngày 17/12/1945 đăng mục đích báo “thay lời phi lộ”, trong đó nêu: “Định rõ giá trị cuộc Tổng tuyển cử đối với ngoài nước và trong nước. Giải thích thể lệ tổng tuyển cử cho người công dân Việt Nam hiểu quyền hạn và bổn phận của mình trong khi chọn và cử người đại biểu vào Quốc hội”.
Đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân. 20h ngày 19/12/1946, hiệu lệnh phát đi từ trạm phát thanh Bạch Mai, “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, lời của Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh vang vọng trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam sáng 20/12/1946, toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến thần thánh. Để rồi kết thúc bằng một Điện Biên “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” - chiến dịch 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm” đã được Quân đội nhân dân (tờ báo của Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam) tường thuật chi tiết trên 33 số báo xuất bản ngay tại mặt trận.
Niềm vui chưa trọn vẹn, đất nước bị chia cắt làm hai miền, báo chí cách mạng ở hai miền có những nhiệm vụ cụ thể khác nhau nhưng đều cùng chung một mục đích: đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cổ vũ phong trào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo Nhân dân (Cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam) ra số đầu từ ngày 11/3/1951 tại Chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã trở thành tờ báo trụ cột - tiếng nói của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam với những tin tức nóng hổi từ chiến trường. Ngày 1/5/1975, Báo đăng trên trang nhất câu chúc mừng màu đỏ chạy ngang cả trang báo: Hoan hô Sài Gòn giải phóng cùng dòng tít “Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng” và tấm ảnh Bác Hồ cười đưa tay chào như “có Bác trong ngày vui đại thắng”.
Nhà báo là chiến sĩ
Khó có thể tổng kết, kể tên hết những đóng góp, những tên báo, bài báo ở những thời điểm lịch sử của Báo chí Cách mạng Việt Nam. Điểm qua một số trang báo, số báo như trên để khẳng định một điều rằng: chặng đường đã qua, Báo chí Cách mạng Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà dân tộc, cách mạng giao phó. Thực hiện tốt sứ mệnh “công tác cách mạng”, biến cây bút thành “vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc… vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”.
![]() |
Báo Cứu Quốc, Báo Độc lập - trưng bày tại Bảo tàng lịch sử quốc gia. (Ảnh: VT) |
Như lời nhà báo lão thành Phan Quang đánh giá: Thế hệ những người làm báo cách mạng đầu tiên, được sự dẫn dắt trực tiếp hoặc từ xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyệt nhiên không có ai là nhà báo chuyên nghiệp, hiểu theo nghĩa coi báo chí là một nghề mưu sinh hay làm nên danh vọng phù vân mà là những nhà hoạt động chính trị coi báo chí là một giải pháp, một phương thức hành động, một vũ khí đấu tranh.
Bởi thế, bất chấp chính quyền thực dân cấm đoán, lùng bắt, phải hoạt động bí mật, bất chấp nguy hiểm rình rập, bất chấp những khó khăn, thiếu thốn, những nhà cách mạng - sau đó mới là nhà báo vẫn cố gắng ra báo đều đặn. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ khi tờ Thanh Niên “mở đường” đến tháng 8/1945, có trên dưới 380 tên báo và tạp chí. Có tờ ra được vài chục số, thậm chí một vài số. Bởi không ít “chủ bút” sau đó đã bị địch bắt, tù đày.
Đơn cử như Báo Dân chúng được Nguyễn Văn Cừ và Hà Huy Tập thay mặt Trung ương Đảng quyết định cho xuất bản trong một trao đổi tháng 4/1939. Nhưng khi báo xuất bản thì đồng chí Hà Huy Tập đã bị bắt tù. Hay như Trần Huy Liệu trong lời cáo biệt độc giả, khi được tin tờ báo ông đang làm chủ bút bị thực dân Pháp đóng cửa: “Viết xong bài này thì đành liệng cây bút xuống, không nói nữa, không viết nữa, chỉ chờ người ta đến khóa tay dẫn đi mà thôi”.
“Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng” để rồi có những tờ báo đặc biệt - báo ở trong tù. Như “Con đường chính” - tờ báo của Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương trong Nhà tù Hỏa Lò, xuất bản từ tháng 2/1931 đến năm 1932. Chủ bút là đồng chí Trường Chinh, bút danh Cây Xoan. Báo được chép tay, mỗi số ra 5 - 7 bản. Hay tháng 5/1941, Chi bộ Cộng sản ở Nhà tù Sơn La ra tờ báo sinh hoạt nội bộ, lấy tên là Suối Reo (lúc đầu giao đồng chí Trần Huy Liệu làm chủ bút, sau đồng chí Xuân Thủy phụ trách tờ báo). Suối Reo xuất bản mỗi tháng hai kỳ, mỗi kỳ nhiều nhất hai số, viết tay bằng mực tím trên giấy viết thư về nhà của các bạn tù gom lại.
![]() |
Bàn đá, Rulô lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dùng in báo và dấu đóng trên Báo Việt Nam độc lập. Hiện vật BTLSVN. (Ảnh: V.T) |
Và cũng ít có bảo tàng báo chí ở quốc gia nào trên thế giới lại có một khu vực thiêng liêng như Bảo tàng Báo chí Việt Nam (đường Dương Đình Nghệ, Hà Nội), nơi có một khu tưởng niệm ghi danh, trưng bày các hiện vật của những nhà báo liệt sĩ. Theo thống kê chưa đầy đủ, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có hơn 510 nhà báo - chiến sĩ ngã xuống. Đó là hiện vật của nhà báo, liệt sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh Lương Đình Dũng (Thông tấn xã Việt Nam); hiện vật của nhà báo, liệt sĩ Tô Chức, Hồ Tương Phùng (Đài Tiếng nói Việt Nam). Những bài bút ký, máy ảnh, bút mực… đã cùng những chiến sĩ - nhà báo xông pha nơi “hòn tên, mũi đạn”, giữa “mưa bom, bão đạn”, trong chiến khu, bưng biền để có được những thông tin đúng nhất, đầy đủ nhất trên mặt báo.
Thời gian có thể làm phai mờ nét chữ, những chiếc máy ảnh có thể bong sơn, những chiếc ba lô có thể cũ sờn nhưng giá trị minh chứng về những thế hệ nhà báo cách mạng Việt Nam, thể hiện khí phách, bản lĩnh người làm báo Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà vẫn còn mãi.
(Còn nữa)