3 đô la và một ký cà phê “đắng”

Với 3 USD người ta có thể mua được 1 kg cà phê nhân Việt Nam chế biến được 40 tách cà phê thượng hạng, bán mỗi tách 3 USD.

Với 3 USD người ta có thể mua được 1 kg cà phê nhân Việt Nam chế biến được 40 tách cà phê thượng hạng, bán mỗi tách 3 USD.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tại Hội thảo “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO” diễn ra tuần qua, câu chuyện của ông Lương Văn Tự (nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam) khiến nhiều người đắng lòng.

Ông Tự cho biết, hiện nay đến 90% cà phê Việt Nam xuất khẩu thô, mỗi 1kg cà phê thu về được 3USD, trong khi sang nước ngoài, bước vào quán cà phê sang trọng uống một tách cà phê chế biến từ cà phê nhân của Việt Nam, chúng ta cũng phải trả đến 3USD. Mà theo tính toán, từ 1kg cà phê người ta có thể pha chế được 40 tách cà phê thơm ngon. Một ví dụ cụ thể để thấy sự thiệt thòi của các DN chế biến thô, không chỉ với riêng cà phê mà gần như của tất cả các ngành nông sản, từ gạo, hạt điều, hạt tiêu…

Theo ông Tự, thẳng thắn mà nói chúng ta yếu từ công nghệ đến năng lực cạnh tranh, năng lực quản lý, đặc biệt là khả năng liên kết, tập hợp sức mạnh... Sắp tới, Hiệp hội Cà phê - Ca cao sẽ kiến nghị Nhà nước chuyển Quỹ bảo hiểm xuất khẩu cà phê, thành Quỹ bảo hiểm ngành hàng cà phê, để có thể thu phí xuất khẩu của tất cả các DN xuất khẩu (kể cả trong và ngoài Hiệp hội) nhằm chia sẻ nguồn lực, tái đầu tư cho cây cà phê, nâng cao chất lượng, hình ảnh, thương hiệu cà phê Việt Nam...

Theo các chuyên gia, hiện nay Việt Nam đã tham gia vào hai chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu ở thế kỷ XXI, nổi bật nhất là chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực. Việt Nam hiện là nhà sản xuất gạo lớn thứ 4 thế giới xét về mặt sản lượng và đứng thứ 5 thế giới xét về kim ngạch xuất khẩu...

Tuy nhiên, Việt Nam mới chỉ tham gia vào phân khúc sản xuất, ở khâu thấp nhất trong chuỗi giá trị. Tỷ lệ nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu của Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng trên 60% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu và năm 2010 vẫn còn ở mức 61%, tương đương với 51,5 tỷ đô la Mỹ. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn đang bị phụ thuộc nhiều vào đầu vào của nước ngoài và hoạt động sản xuất ngành hàng phụ trợ phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu còn yếu.

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2011, DN ở nước ta tăng 2,3 lần về số lượng và tăng 7,3 lần về số vốn đăng ký so với thời điểm năm 2007.

Bộ này cho rằng, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều DN đã từng bước xác lập được chỗ đứng trên thị trường khu vực và thế giới. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam ngày càng được mở rộng, vươn tới những thị trường được coi là khó tính, năm 2010, đã có 19 thị trường Việt Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên.…

Rất nhiều chuyên gia tham dự hội nghị cũng đồng tình với ý kiến của GS.TSKH Nguyễn Mại khi kiến nghị Nhà nước sớm sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu và các Luật Thuế theo hướng tạo ra hành lang pháp lý minh bạch, công khai, tạo môi trường thuận lợi hơn cho kinh doanh và đầu tư. Về chính sách lao động và việc làm cần có ưu đãi cao hơn đối với DN vừa và nhỏ, kể cả lĩnh vực dịch vụ, theo đó không chỉ miễn, giảm thuế đối với DN sử dụng nhiều lao động.

Đặc biệt, chính các DN cần xây dựng chiến lược kinh doanh, định hình đường hướng, bước đi, xác định điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ, đề ra giải pháp kinh doanh dài hơi hơn. DN cần quan tâm thích đáng cho chiến lược hình ảnh và thương hiệu của mình, nâng cao năng lực quản trị, tăng cường đầu tư và bồi dưỡng trình độ, chuyên môn cho người lao động.

“Doanh nghiệp đầu tư chưa tương xứng cho công tác phát triển nguồn nhân lực. Thực tế, họ thường sử dụng biện pháp “ăn xổi, đi săn đầu người” từ công ty khác thay vì tự đào tạo” - các chuyên gia thẳng thắn phê bình.

Mai Hoa

Đọc thêm