Báo Quân giải phóng - Câu chuyện của những người làm báo thời chiến

(PLVN) - Đại tá, PGS.TS Hồ Sơn Đài đã dành hai năm sưu tầm tư liệu, gặp gỡ nhân chứng qua các giai đoạn của Báo Quân giải phóng, cung cấp dữ liệu cho bạn đọc những tư liệu quý về lịch sử tờ báo này trong dòng chảy báo chí cách mạng Việt Nam. Cuốn sách Báo Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1963 - 1975) đã mở ra cho tôi nhiều điều lý thú về những nhà báo quả cảm của thời chiến, mang thông tin từ “chiến trường đỏ lửa” đến bạn đọc.
Đại tá PGS-TS Hồ Sơn Đài khi ra mắt cuốn sách “Báo Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1963-1975)” và diện mạo tờ báo Quân giải phóng (chụp lại từ sách). (Ảnh: PV)

Tờ báo trở thành một bộ phận quan trọng hợp thành mũi đấu tranh chính trị

Báo Quân giải phóng ra số đầu tiên vào ngày 1/11/1963, trùng với ngày tướng lĩnh Sài Gòn lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và tờ báo dừng lại vào ngày 15/10/1975, lúc non sông Việt Nam đã nối liền một dải. Theo TS. Hồ Sơn Đài chia sẻ, trong điều kiện chiến tranh tàn khốc, việc viết được một bài báo và chuyển tay bài báo ấy (xé từ cuốn sổ học trò 100 trang) về tòa soạn đã khó, việc in ấn tờ báo phát hành đến từng trung đội Quân giải phóng trên toàn miền Nam càng khó hơn.

Vậy mà trong 12 năm, đã có 338 số với đầy đủ các chuyên mục như: xã luận, bình luận, thông cáo báo chí, tin tức thời sự, phóng sự ghi chép, tường thuật, gương người tốt - việc tốt, văn nghệ, tranh, biếm họa… Các số báo phản ánh trung thực cuộc chiến đấu khắp chiến trường miền Nam. Tờ báo Quân giải phóng đã gắn liền với hình ảnh những người lính - phóng viên chiến trường, chuyển tải những chiến thắng vang dội, khích lệ tinh thần quân dân.

“Cũng như những phương tiện truyền thông khác lúc bấy giờ (như báo Giải phóng, Đài phát thanh Giải phóng), nội dung báo Quân giải phóng phản ánh, quy chiếu cuộc chiến tranh chống Mỹ trên chiến trường miền Nam từ hướng tiếp cận của những người lính - nhà báo. Gần nửa trong số họ đã ra đi trước và sau ngày 30/4/1975. Đó là lý do tôi viết cuốn sách nhỏ này, phần để góp tư liệu cho nỗ lực phục dựng lịch sử Việt Nam thời hiện đại, phần để tri ân các cựu cán bộ, phóng viên, nhân viên, những người giờ đây dù tuổi đã trên, dưới tám mươi, vẫn vẹn nguyên niềm tin yêu một thời làm báo Quân giải phóng”, Đại tá, PGS. TS Hồ Sơn Đài bộc bạch về lý do ông muốn viết một cuốn sách đầy đủ tư liệu để tri ân, hồi niệm về đồng đội, những nhà báo làm nên tờ báo trong lòng địch.

Ngược dòng lịch sử, ngày những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, cùng với việc kiện toàn công tác lãnh đạo và chỉ huy các Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam (LLVT GPMN), Quân ủy, Bộ Chỉ huy các LLVT GPMN đã chú trọng công tác tuyên truyền và vận động cách mạng.

Ngày 25/3/1963, Trưởng ban Quân sự miền Trần Nam Trung đã ký văn bản thống nhất chủ trương thành lập Báo Quân giải phóng. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 1/11/1963, Báo Quân giải phóng, cơ quan ngôn luận của Quân ủy và Bộ Chỉ huy các LLVT GPMN, tiếng nói của LLVT GPMN chính thức ra đời, phát hành số báo đầu tiên với 4 trang khổ A5.

Từ ngày thành lập cho đến khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử vào ngày 15/10/1975, Báo Quân giải phóng đã xuất bản 338 số. Tuy chỉ kéo dài trong 12 năm, nhưng đó cũng là giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Báo Quân giải phóng đã cùng các cơ quan truyền thông cách mạng như Đài Phát thanh giải phóng, Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng, Chương trình Phát thanh Quân giải phóng miền Nam… phản ánh mọi hoạt động của quân và dân miền Nam từ năm 1963 đến năm 1975.

“Đó là những bài báo quán triệt chủ trương, nhiệm vụ đấu tranh trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể; phổ biến các tấm gương tập thể và cá nhân điển hình, những thông tin tri thức và bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng và nghệ thuật quân sự của lực lượng vũ trang, tố cáo bản chất, âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ… Tờ báo đã thực sự trở thành một bộ phận quan trọng hợp thành mũi đấu tranh chính trị trong phương châm hai chân ba mũi ba vùng; một thứ vũ khí tin cậy và sắc bén của Quân ủy, Bộ Tư lệnh, các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng và văn hóa”, Đại tá Hồ Sơn Đài nhấn mạnh.

Bài ca tôi không quên

Như chia sẻ của Đại tá PGS.TS Hồ Sơn Đài ở trên, ông đã dành trọn hai năm sưu tầm tư liệu, gặp gỡ nhân chứng để từ đó cho ra đời tập sách như một công trình khoa học quý hiếm. Tập sách dày 400 trang, đầy ắp tư liệu. Với 108 số báo có trong tay, tác giả Hồ Sơn Đài đã phục dựng được quá trình hình thành và phát triển của Báo Quân giải phóng một cách trung thực và sinh động.

Nhà báo Hồ Văn Sanh (bìa trái) tại TP Sài Gòn, tháng 5/1975.

Chương 1 tập trung vào giai đoạn 1963 - 1965 gắn liền với “Chiến tranh đặc biệt”; Chương 2: thời kỳ 1966 - 1968 nổi bật là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân; Chương 3: 1969 - 1972 tái hiện thời kỳ chiến trường mở rộng qua Campuchia; cuối cùng là Chương 4: 1973 - 1975 với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Để có được những tư liệu quý, chân dung của 64 người từng làm việc trực tiếp tại Báo Quân giải phóng, tác giả Hồ Sơn Đài đã dụng công sưu tầm tư liệu và hiện vật, lặn lội khắp cả nước tìm gặp các nhân chứng và từ đó đã có được danh sách của tất cả 64 người năm đó từng công tác tại Báo Quân giải phóng.

Đó là tổng biên tập của báo từ số đầu tiên như Lê Đình Lệ (Tư Trực), rồi lần lượt là Hồ Văn Sanh, Nguyễn Viết Tá…; đến các phóng viên, biên tập viên Trần Nam Hưng, Phạm Phú Bằng, Vũ Tuất Việt, Trần Phấn Chấn, Mai Bá Thiện, Đặng Văn Nhưng…; hay cả những phóng viên trẻ mới tốt nghiệp đã vào thẳng chiến trường như: Vũ Ngọc Xiêm, Đỗ Tất Thắng, Nguyễn Sung, Trần Đình Bá, Nguyễn Việt Ân, Vũ Đình Hưng...; và có những người đã mãi mãi nằm lại chiến trường như các nhà báo liệt sĩ Phạm Ngọc Châu, Thân Trọng Hân… Mỗi cá nhân có những nét riêng, có chuyên môn khác nhau nhưng bằng sự cống hiến vô tư, trong sáng của mình đã góp công xây dựng nên truyền thống tờ báo anh hùng.

“Và dù ở đâu, làm gì, hình ảnh những năm tháng hoạt động ở Báo Quân giải phóng luôn đọng lại, lung linh trong tâm thức mỗi cựu cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên tòa soạn. Những hoạt động ấy không chỉ là thao tác nghiệp vụ như lấy tin, viết bài, biên tập, lên trang ấn hành… mà gồm cả cuộc sống và chiến đấu của một người lính trận. Phóng viên Thân Trọng Hân, Phạm Ngọc Châu ngã xuống trong đội hình các tiểu đoàn mũi nhọn tiến công trên địa bàn vùng ven thành phố Sài Gòn. Nhà báo Nguyễn Nghiệm, chuyên viên bản khắc gỗ Văn Nghiệp, phụ trách tư liệu và maquette Tấn Nghiệm, thư ký đánh máy Mỹ Dung đã hy sinh trong khi tìm đánh biệt kích hoặc bị bom B52 rải thảm. Những trang viết của Phạm Phú Bằng, Đặng Văn Nhưng, Trần Phấn Chấn nhòe máu trong cuộc Tổng tiến công xuân 1968. Tính đến ngày thống nhất đất nước 30/4/1975 báo đã có 25 cán bộ, phóng viên, biên tập viên được tặng thưởng Huân chương Chiến công và danh hiệu của Nhà nước. Báo được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”, Đại tá Hồ Sơn Đài bồi hồi.

Có thể khẳng định, Báo Quân giải phóng đã góp phần tạo dựng diện mạo báo chí cách mạng nước ta, nhất là ở chiến trường miền Nam, nơi thành đồng Tổ quốc.

Trong phần Ký ức, nhà báo Nguyễn Thế Kỷ viết: “Sau khi ký Hiệp định Paris, tờ Quân giải phóng lại theo dấu chân chiến sĩ cùng toàn quân, toàn dân ta đi giữ gìn vùng giải phóng, tham gia hầu hết các cuộc trao trả tù quân sự, dân sự tại các sân bay miền Đông. Dù sinh ra và lớn lên ngay trên mảnh đất ngày đêm bom đạn, Báo Quân giải phóng không bao giờ đăng những tin giật gân “câu khách”, luôn luôn giữ lòng trung thành, kiên trinh, là tiếng nói của lực lượng vũ trang cách mạng. Gian khổ có thừa nhưng ác liệt cũng không thiếu. Chỉ trong đêm cuối tháng 12/1972, máy bay B52 đánh trùm xuống nơi tòa soạn đóng quân, một chiến sĩ hỏa tốc (người chuyên chuyển các tin tức ra bộ phận điện đài) hy sinh chỉ còn tìm thấy mẩu dây lưng có chữ T trong tên. Gian khổ ác liệt thế nhưng báo bao giờ cũng ra định kỳ và phát hành tới cấp trung đội. Số cuối cùng phát hành vào cuối tháng 10/1975 tại TP HCM còn vương mùi thuốc súng”.

Nhà báo Đỗ Đình Nghiệp viết: “Khi ấy chúng tôi hầu hết ở độ tuổi 24 - 25. Thật tự hào đã có những ngày đẹp nhất trên trận tuyến đánh quân thù trong cương vị là phóng viên Báo Quân giải phóng, là người của Cục Chính trị miền. Đó là những ngày không thể nào quên mỗi lần đi công tác nhận được sự đùm bọc, chở che của bà con cô bác kiên trung bất khuất ở vùng ven Sài Gòn, ở vùng đất miền Đông Nam Bộ bạt ngàn rừng cao su, bạt ngàn rừng chồi non gian lao mà anh dũng”.

Nhà báo Đỗ Tất Thắng viết: “Chúng tôi còn rất trẻ, nhưng tất cả đều là những phóng viên đã được “tu nghiệp” ở chiến trường Quảng Trị năm 1972, chỉ có điều đấy là những phóng viên “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam” vì là bộ đội đi “bê” ngắn. Vào Báo Quân giải phóng miền Nam mới là đi “bê” dài. Ở báo, chúng tôi lần đầu tiên ăn Tết xa nhà. Trước khi ăn bữa cơm tất niên, mấy phóng viên trẻ ra bờ suối lau nước mắt vì nhớ nhà. Chúng tôi biết thế nào là phát nương làm rẫy, giờ giải lao lèn bụng bằng bát cháo loãng, nghe tiếng tắc kè, đếm lẻ thì nắng chẵn thì mưa…”.

Đọc thêm