Theo nội dung thông cáo báo chí, ngày 1/11/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương tiếp nhận, thụ lý xác minh tin báo về tội phạm đối với việc quản lý, sử dụng khu đất có diện tích 43ha và 145ha tại phường Hòa Phú (TP Thủ Dầu Một).
Qua điều tra xác minh, ngày 16/12/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, theo Điều 219 BLHS để tiến hành điều tra.
Kết quả điều tra xác định: Khu đất có diện tích 43ha tại phường Hòa Phú, TP Thủ Dầu Một (tỉnh Bình Dương) do TCty Bình Dương thực hiện dự án Khu đô thị - Thương mại - Dịch vụ Tân Phú. Trong quá trình quản lý, sử dụng năm 2016, TCty Bình Dương đã chuyển nhượng 43ha đất trên cho cho Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Tân Phú với giá gần 250,2 tỷ đồng.
Việc chuyển nhượng 43ha đất do TCty Bình Dương thực hiện bị cho là không đúng quy định về thẩm định giá, đấu giá tài sản theo Điều 27 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp, gây thất thoát số tiền hơn 126,8 tỷ đồng so với bảng giá đất quy định của UBND tỉnh Bình Dương tại thời điểm chuyển nhượng năm 2016.
Theo nội dung thông cáo báo chí, hành vi nêu trên do các cá nhân gồm ông Nguyễn Văn Minh (Chủ tịch Hội đồng thành viên); ông Trần Nguyên Vũ (thành viên Hội đồng thành viên, hiện nay là Tổng Giám đốc TCty Bình Dương); ông Huỳnh Thanh Hải (nguyên là thành viên Hội đồng thành viên đại diện phần góp vốn của TCty Bình Dương tại Công ty Tân Phú, hiện là Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Đầu tư và Quản lý dự án Bình Dương) thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” theo Điều 219 BLHS.
Ngày 7/4, Công an tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với các ông Minh, Vũ, Hải; ra lệnh bắt bị can để tạm giam trong thời hạn 4 tháng với ông Minh, Vũ; ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với ông Hải. Công an tỉnh Bình Dương cũng đã thực hiện lệnh khám xét tại nơi ở và nơi làm việc của các bị can để phục vụ công tác điều tra.
Dư luận băn khoăn trong sự việc trên là sự việc đã ồn ào từ vài năm nay, từ tháng 10/2018 Tỉnh ủy Bình Dương đã “quyết định thu hồi chủ trương đã cho TCty Bình Dương chuyển nhượng 30% vốn góp tại Tân Phú”. UBND tỉnh Bình Dương sau đó cũng đã lập đoàn thanh tra sự việc. Tuy nhiên không hiểu sao, phải sau khi Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương “tiếp nhận, thụ lý xác minh tin báo về tội phạm ngày 1/11/2019 đối với việc quản lý, sử dụng khu đất trên” và sau đó hơn một tháng nữa, ngày 16/12/2019, mới ra quyết định khởi tố vụ án hình sự?
Liên quan dự án này, như PLVN đã có một số bài phản ánh, đánh giá tính hợp pháp của quá trình chuyển nhượng đất vụ việc trên, Tổng cục Quản lý Đất đai thuộc Bộ TN&MT đã có văn bản giải đáp. Trong Văn bản số 2252/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ cơ quan này phát hành, nêu rõ: “Do TCty Bình Dương đã được UBND tỉnh giao đất có thu tiền sử dụng đất, đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, đã được cấp “sổ đỏ” nên TCty Bình Dương có quyền chuyển nhượng QSDĐ”.
Ngày 2/8/2017, TCty Bình Dương chấm dứt vai trò tại dự án khi chuyển nhượng vốn góp. Tháng 2/2018, toàn bộ vốn góp tại Tân Phú đã được chuyển nhượng cho một chủ đầu tư mới. Quá trình chuyển nhượng này được cơ quan chức năng Bình Dương chứng nhận hợp lệ, hợp pháp, đã cập nhật thông tin trong đăng ký kinh doanh.
Quyền lợi của chủ đầu tư mới dự án được giải quyết ra sao, theo các chuyên gia pháp lý, sau này cơ quan chức năng có xác định việc chuyển nhượng từ TCty Bình Dương sang Tân Phú là sai, từ đó dẫn đến hợp đồng mua bán phần góp vốn, hợp đồng mua bán QSDĐ giữa TCty Bình Dương và Tân Phú sẽ bị vô hiệu. Nhưng giao dịch giữa Tân Phú và bên thứ ba (chủ đầu tư hiện nay của dự án) vẫn là giao dịch ngay tình.
Khoản 2 Điều 133 BLDS đã nêu rõ: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình; và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.