Bộ Công an trả lời:
1. Về điều kiện được đề nghị đặc xá
Đặc xá là đặc ân của người đứng đầu Nhà nước, khác với quy định tha tù trước thời hạn có điều kiện quy định tại Điều 66 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do Chánh án Tòa án nhân dân quyết định. Vì vậy, Điều 10 của dự thảo Luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng hơn diện đối tượng người có thể được đề nghị đặc xá so với quy định của Luật Đặc xá năm 2007 và diện người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, như sau:
- Theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì một trong những điều kiện để tha tù trước thời hạn là “phạm tội lần đầu”. Trong dự thảo Luật Đặc xá (sửa đổi) không quy định điều kiện này;
- Điều 66 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299; người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV của Bộ luật này do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251, 252 của Bộ luật Hình sự” thì không được đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện. Trong dự thảo Luật Đặc xá (sửa đổi), đối tượng này vẫn có thể được đề nghị đặc xá; tuy nhiên, quy định chặt chẽ hơn về thời hạn đã chấp hành án phạt tù;
- Bổ sung quy định Chủ tịch nước xem xét, quyết định đặc xá đối với một số trường hợp tuy chưa thực hiện xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí; chưa thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác nhưng có thỏa thuận không yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc đồng ý bồi thường thiệt hại sau khi được đặc xá.
2. Về các Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá
- Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước không phải là văn bản quy phạm pháp luật (giữ nguyên như quy định của Luật Đặc xá hiện hành);
- Quy định cụ thể hơn trình tự, thủ tục trình Chủ tịch nước ban hành quyết định về đặc xá; đồng thời, bổ sung quy định Tờ trình và dự thảo Quyết định về đặc xá phải được trình lên Chủ tịch nước chậm nhất là 60 ngày trước thời điểm đặc xá, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật này;
- Bổ sung quy định Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước được công bố và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và được niêm yết tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được đặc xá cư trú để bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường khả năng giám sát, giúp đỡ người được đặc xá nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
3. Về đặc xá đối với phạm nhân là người nước ngoài
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi thi hành Luật Đặc xá năm 2007 về quản lý đối tượng người nước ngoài được đặc xá, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 19, cụ thể: “Khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước đối với người nước ngoài, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đặc xá là công dân và đề nghị phối hợp thực hiện Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước.
Trường hợp các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đặc xá là công dân nhưng các cơ quan này không đến nhận hoặc chưa đến nhận thì người nước ngoài được đặc xá được bố trí lưu trú tại cơ sở lưu trú do cơ quan quản lý thi hành án hình sự chỉ định trong thời gian chờ làm các thủ tục cần thiết” và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Quy định này là phù hợp với khoản 4 Điều 40 Luật Thi hành án hình sự năm 2010; đồng thời, cụ thể hóa chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người nước ngoài phạm tội.
4. Về một số nội dung cụ thể khác của dự thảo Luật
- Các trường hợp không đề nghị đặc xá (Điều 11)
Dự thảo Luật Đặc xá (sửa đổi) quy định: “Phần bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự” để cụ thể, phù hợp hơn và bảo đảm quyền được đề nghị được đặc xá đối với các trường hợp có phần bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng giữ nguyên hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đồng thời, dự thảo Luật bỏ quy định trước đó đã được đặc xá và có từ hai tiền án trở lên được quy định tại Điều 11 của Luật Đặc xá năm 2007 nhằm thu hẹp diện đối tượng không đề nghị đặc xá, bảo đảm thể hiện được đầy đủ ý nghĩa là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước đối với người phạm tội bị kết án phạt tù.
- Hồ sơ đề nghị đặc xá
Dự thảo Luật bổ sung quy định về các tài liệu: có đơn xin miễn, giảm; văn bản thỏa thuận không yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc đồng ý bồi thường thiệt hại sau khi được đặc xá; văn bản đồng ý tiếp nhận của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đề nghị đặc xá là công dân để chặt chẽ và phù hợp với quy định tại Điều 10, Điều 19 của dự thảo Luật.
Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách người đủ điều kiện đề nghị đặc xá; thẩm định xét duyệt hồ sơ đề nghị đặc xá và trình Chủ tịch nước danh sách đề nghị đặc xá (Điều 15, Điều 16): Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách người đủ điều kiện đề nghị đặc xá; thẩm định xét duyệt hồ sơ đề nghị đặc xá và trình Chủ tịch nước danh sách đề nghị đặc xá theo hướng cụ thể, chặt chẽ hơn so với quy định của Luật Đặc xá năm 2007.
- Tổ thẩm định liên ngành, trách nhiệm của một số bộ và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
+ Qua tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Luật Đặc xá năm 2007, để cụ thể hóa tư cách pháp lý của Tổ thẩm định liên ngành (giúp việc Hội đồng tư vấn đặc xá) dự thảo Luật đã bổ sung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ thẩm định liên ngành tại khoản 5 Điều 3, Điều 15, Điều 16, Điều 26 dự thảo Luật.
+ Để phù hợp với quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010, dự thảo Luật đã bổ sung trách nhiệm của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện trong công tác đặc xá tại khoản 2 Điều 9 (niêm yết Quyết định về đặc xá tại nhà tạm giữ thuộc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện); khoản 2 Điều 10; khoản 6 Điều 14, Điều 15, Điều 18.
+ Dự thảo Luật đã bổ sung trách nhiệm của Bộ Tư pháp (Điều 31), Bộ Ngoại giao (Điều 32) trong công tác đặc xá để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bộ trong việc thực hiện đặc xá; cụ thể là:
Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành có liên quan thực hiện tuyên truyền đối ngoại về công tác đặc xá; phối hợp thực hiện Quyết định đặc xá đối với người được đặc xá là người nước ngoài và các hoạt động khác liên quan đến công tác đặc xá theo quy định của Luật Đặc xá.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm: tham gia Hội đồng tư vấn đặc xá; chỉ đạo cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu trong việc cung cấp thông tin, chuyển giao giấy tờ, tiền, tài sản có liên quan đến phạm nhân là người phải thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, các nghĩa vụ dân sự khác hoặc được thi hành án dân sự; phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức khác thực hiện các hoạt động khác liên quan đến công tác đặc xá theo quy định của Luật Đặc xá.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã được rà soát, chỉnh lý về kỹ thuật để bảo đảm thống nhất của hệ thống pháp luật và phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.