Bộ Tài chính đề xuất 3 giải pháp thực hiện chính sách sửa đổi các nội dung về đăng ký thuế

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Bộ Tài chính đang đề nghị xây dựng dự án Luật Quản lý thuế (thay thế), trong đó đề xuất 3 giải pháp thực hiện chính sách sửa đổi các nội dung về đăng ký thuế.
Ảnh minh hoạ.
Ảnh minh hoạ.

Theo Bộ Tài chính, mục tiêu của chính sách nhằm đảm đảm bảo phù hợp do thay đổi sắp xếp tổ chức bộ máy (Kế hoạch số141/KH-BCĐTKNQ18 ngày 6/12/2024 của Ban Chi đạo Chính phủ về định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ). Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, cơ quan quản lý thuế đã được sắp xếp tổ chức lại theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý thuế.

Bên cạnh đó, hoàn thiện quy định về đăng ký thuế nhằm đảm bảo nâng cáo hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, hoàn thiện quy định nhằm chuyển đổi số công tác quản lý thuế; Đảm bảo thống nhất, phù hợp với các quy định của pháp luật liên quan. Đồng thời, đảm bảo cơ sở pháp lý, thích ứng với các diễn biến, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn tới.

Nội dung của chính sách: Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung về đối tượng đăng ký thuế và cấp mã số thuế nhằm bao quát đầy đủ các đối tượng phải cấp mã số thuế để quản lý thuế và phù hợp với pháp luật thuế có liên quan (Điều 30).

Sửa đổi, bổ sung về địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế lần đầu, thời hạn đăng ký thuế lần đầu, cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế để đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về cư trú và cơ sở dữ liệu quốc gia về căn cước công dân của Bộ Công an ngay khi cá nhân được cấp mã số định danh cá nhân (Điều 31, Điều 32, Điều 33, Điều 34).

Quy định việc sử dụng mã số thuế, thay đổi thông tin đăng ký thuế, thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh, chấm dứt hiệu lực mã số thuế, khôi phục mã số thuế; đăng ký thuế trong trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp nhằm đồng bộ với quy định về đối tượng đăng ký thuế và cấp mã số thuế, bao quát các trường hợp phát sinh trong thực tế và đảm bảo phù hợp với quy định với Luật Doanhnghiệp (Điều 35, Điều 36, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 40).

Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất 3 giải pháp thực hiện chính sách sửa đổi các nội dung về đăng ký thuế.

Cụ thể, giải pháp 1: Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung về đối tượng đăng ký thuế và cấp mã số thuế nhằm bao quát đầy đủ các đối tượng phải cấp mã số thuể để quản lý thuế và phù hợp với pháp luật thuế có liên quan.

Bộ Tài chính lý giải, Luật Quản lý thuế hiện nay yêu cầu người nộp thuế phải đăng ký và được cấp mã số thuế trước khi bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc phát sinh nghĩa vụ tài chính với ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa đề cập đến việc cấp mã số thuế cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân.

Vì vậy, để bao quát đầy đủ các đối tượng phải cấp mã số thuế để quản lý thuế và phù hợp với pháp luật thuế có liên quan theo hướng: Mã số thuế là mã đăng ký doanh nghiệp, mã đăng ký hợp tác xã, mã đăng ký cá nhân kinh doanh. Đồng thời, nghiên cứu quy định việc cấp MST nộp thay, rà soát lại yêu cầu quản lý, sự cần thiết phải cấp MST nộp thay, bổ sung đối tượng đăng ký thuế theo quy định thuế TTTC, việc cấp MST cho đơn vị hợp thành chịu trách nhiệm kê khai theo quy định thuế.

Trong giải pháp 2, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung về địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế lần đầu, thời hạn đăng ký thuế lần đầu, cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế để đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về cư trú và cơ sở dữ liệu quốc gia về căn cước công dân của Bộ Công an ngay khi cá nhân được cấp mã số định danh cá nhân.

Bộ Tài chính cho rằng, khi cá nhân được cấp mã số định danh cá nhân thì cơ quan thuế tự động cập nhật thông tin đăng ký của cá nhân từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về cư trú và cơ sở dữ liệu quốc gia về căn cước công dân của Bộ Công an thay thế cho thông tin đăng ký thuế của người nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập phải kê khai như trước đây. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi để đảm bảo thực hiện đồng bộ, thống nhất quy định về quản lý thuế.

Giải pháp 2 cũng nhằm để nghiên cứu bổ sung quy định về thời điểm đăng ký thuế; thông báo mã số thuế; địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế và thay đổi thông tin đăng ký thuế với cơ quan thuế được giao nhiệm vụ quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo thuế tối thiểu toàn cầu;

Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoàn 2 Điều 34 Luật Quản lý thuế theo hướng cơ quan thuế không phải cấp thông báo mã số thuế đối với trường hợp cá nhân sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế. Đồng thời, cần rà soát lại sự cần thiết của việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký thuế, Thông báo MST khi các hoạt động đã được thực hiện bằng hình thức điện tử và thông tin đã được lưu trữ trên môi trường điện tử.

Giải pháp 3: Quy định việc sử dụng mã số thuế, thay đổi thông tin đăng ký thuế, thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh, chấm dứt hiệu lực mã số thuế, khôi phục mã số thuế; đăng ký thuế trong trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp nhằm đồng bộ với quy định về đối tượng đăng ký thuế và cấp mã số thuế, bao quát các trường hợp phát sinh trong thực tế và đảm bảo phù hợp với quy định với Luật Doanh nghiệp.

Theo Bộ Tài chính, hiện nay, tỷ lệ doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký chiếm tỷ lệ cao và có xu hướng ngày càng tăng làm thất thu ngân sách nhà nước, khó khăn trong công tác quản lý thuế và ảnh hưởng đến người nộp thuế khác khi mua hàng của doanh nghiệp này.

Vì vậy, cần bổ sung chế tài ràng buộc, hạn chế “quyền” đối với doanh nghiệp đã bị cơ quan thuế phát hành Thông báo về việc người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký.

Cũng theo Bộ Tài chính, khi thực hiện nội dung liên thông thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế đối với hộ kinh doanh và không cấp mã số thuế cho cá nhân mà sử dụng luôn mã số định danh cá nhân làm mã số thuế như để xuất tại Điều 30 nêu trên thì cần thiết phải sửa lại quy định về thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế cho phù hợp.

Khi cá nhân thay đổi thông tin đã khai báo khi cấp mã số định danh cá nhân thì cơ quan thuế tự động cập nhật thông tin đăng ký thay đổi của cá nhân từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về cư trú và cơ sở dữ liệu quốc gia về căn cước công dân của Bộ Công an thay thế cho thông tin thay đổi đăng ký thuế của người nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập phải kê khai như trước đây. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi quy định về thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế cho phù hợр.

Bên cạnh đó, Luật Hợp tác xã không có quy định về tổ chức lại hợp tác xã mà chỉ có quy định về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất hợp tác xã. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Nghị định số 01/2021/NĐ-CP quy định chị tiết Luật Doanh nghiệp thì hộ kinh doanh không có hình thức tổ chức lại nên cần bỏ quy định này tại Luật Quản lý thuế.

Luật Quản lý thuế cũng chưa có quy định đối với người nộp thuế không đăng ký thuế trực tiếp với quan thuế được nộp hồ sơ đề nghị khôi phục mã số thuế sau khi cơ quan thuế có thông báo người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng kýnhưng chưa bị thu hồi giấy phép và chưa bị chấm dứt hiệu lực mã số thuế.

Vì vậy, giải pháp này được đưa ra nhằm nghiên cứu bổ sung trường hợp khôi phục mã số thuế tại khoản 1 Điều 40 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có nhu cầu tiếp tục hoạt động kinh doanh sau khi đã có hồ sơ chấm dứt hiệu lực mã số thuế gửi đến cơ quan thuế (do chia, sáp nhập, hợp nhất, chấm dứt hoạt động đơn vị phụ thuộc) nhưng chưa nộp hồ sơ chấm dứt hoạt động đến cơ quan đăng ký kinh doanh.

Đồng thời, nghiên cứu bổ sung trường hợp thay đổi thông tin đăng ký thuế do quy định thuế tối thiểu toàn cầu đang quy định trường hợp thay đổi đơn vị hợp thành chịu trách nhiệm kê khai mới cũng thực hiện thủ tục thay đổi thông tin đăng ký thuế.

Đọc thêm