Bất cập, vướng mắc
Cuối tuần qua, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo “Chất lượng của quy định và sự thuận lợi của môi trường kinh doanh”. Đây là hoạt động được thực hiện trong khuôn khổ dự án Tăng cường tiếng nói của doanh nghiệp (DN) trong việc giám sát và thực hiện tái cơ cấu kinh tế (thuộc Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam - Aus4Reform).
Tại Hội thảo, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký – Trưởng Ban Pháp chế VCCI đã nêu lên một thực tế là trong hoạt động cải thiện môi trường kinh doanh hiện nay, các cơ quan chính sách tập trung nhiều vào các văn bản cấp luật, nghị định. Trong khi đó, với đặc thù của hệ thống pháp luật nước ta, để một quy định có thể thực thi trên thực tế, phụ thuộc lớn vào các quy định tại thông tư, thậm chí là công văn. “Vì vậy, có hiện tượng, mặc dù các văn bản cấp luật, nghị định có tinh thần tiến bộ rất rõ, nhưng khi xuống đến đến thông tư, công văn lại nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc, khiến tính cải cách của chính sách không phát huy trên thực tế” - ông Tuấn nhận định.
Thông tư 11/2022/TT-BGDĐT quy định về liên kết tổ chức thi cấp chứng chỉ năng lực ngoại ngữ của nước ngoài được nhắc đến như một ví dụ điển hình và thời sự nhất về ảnh hưởng của thông tư, công văn. “Chỉ 1 thông tư thôi, nhưng đang làm xáo trộn cuộc sống của người dân, DN” - ông Tuấn dẫn chứng.
Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam (VACC) đã có một bảng liệt kê về 14 bất cập trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản, nhà ở. Theo ông, 12 luật liên quan đến lĩnh vực này mà không luật nào theo luật nào, nên DN như trong một “mớ bòng bong”, nhiều cuộc gặp tháo gỡ vẫn chưa xong. “Nếu nói ách tắc thì chắc nói suốt ngày không hết, nhiều văn bản rất trớ trêu…”, ông Hiệp chia sẻ.
Bà Trần Ngọc Ánh, Đại diện Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN dẫn chứng về việc công văn mâu thuẫn với thông tư. Đơn cử như cứ sản phẩm dạng lỏng là quy về Chương “Đồ uống và nước giải khát”. Do vậy, nhiều mặt hàng đối mặt với việc thông quan tại các cửa khẩu khác nhau bị áp thuế khác nhau. “Công văn mâu thuẫn nhưng một khi được ký, đóng dấu thì hải quan địa phương sẽ tiến hành truy thu DN trước” - bà Ánh phản ánh.
Ông Nguyễn Văn Đệ, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh viện tư nhân Việt Nam sau khi liệt kê một loạt thông tư đang “làm khổ” DN đã chua chát nhận xét: Thông tư vẫn “to” hơn bghị định (!?). “Thông tư còn nguy hiểm hơn tham nhũng, vì thông tư chất lượng kém khiến DN không làm được, cản trở DN thì người dân không có việc làm, như vậy, Nhà nước làm sao thu được ngân sách? Đáng ra thông tư là thúc đẩy DN làm theo luật, “phanh” DN trước những vùng cấm. Tôi rất mong muốn các ý kiến này, các vấn đề mà VCCI đang nghiên cứu đến được Chính phủ, Quốc hội” - ông Đệ thẳng thắn.
Cần cơ chế kiểm soát việc ban hành Thông tư
Khảo sát của VCCI cho thấy, tính từ 1/1/2016 đến ngày 20/7/2020, số lượng thông tư chiếm hơn 68% tổng số lượng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) ban hành. Theo bà Nguyễn Thị Diệu Hồng, Ban Pháp chế, VCCI, quy trình ban hành thông tư ít minh bạch hơn nếu so sánh với quy trình ban hành của nghị định, luật, pháp lệnh. Việc soạn thảo và ban hành thông tư chủ yếu thực hiện giữa các đơn vị chuyên môn của bộ, trong khi các VBQPPL từ cấp nghị định trở lên, có sự tham gia của nhiều cơ quan Nhà nước khác nhau và có mức độ kiểm soát về chất lượng và tính minh bạch tốt hơn.
Cũng theo bà Hồng, thông tư có một số giới hạn nhất định trong các quy định như: Không được ban hành điều kiện kinh doanh (ĐKKD), thủ tục hành chính (TTHC); Chỉ được quy định chi tiết các điều, khoản, điểm tại các điều, khoản, điểm được giao tại các VBQPPL có giá trị pháp lý cao hơn… Mặc dù quy định cấm thông tư ban hành ĐKKD từ năm 2005 và Chính phủ có đợt rà soát năm 2016 để loại bỏ các thông tư quy định ĐKKD, nhưng đến nay vẫn không khó để tìm thấy các thông tư quy định về ĐKKD trong hệ thống VBQPPL nước ta.
Theo bà Hồng, có những thông tư ban hành ĐKKD “công khai” (ví dụ: trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng), có những thông tư lại ban hành ĐKKD ở dạng “ẩn”, lồng ghép trong các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (ví dụ: bộ quy tắc “thực hành tốt” trong kinh doanh dược…). “Việc thông tư ban hành ĐKKD sẽ khiến nguy cơ môi trường đầu tư, kinh doanh trở nên kém thuận lợi vì rào cản từ các ĐKKD được ban hành bởi quy trình xây dựng không được giám sát chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước, cũng như cộng đồng DN” - bà Hồng quan ngại.
Thay mặt nhóm nghiên cứu VCCI, bà Hồng khẳng định, việc lạm dụng ban hành thông tư hướng dẫn vừa khiến cho hệ thống pháp luật nước ta trở nên phức tạp, vừa không đảm bảo chất lượng của các quy định pháp luật. Do đó, cần kiểm soát hiện tượng thông tư ban hành ĐKKD, TTHC ngay từ luật. Trong các luật chuyên ngành cần chú trọng đến việc ủy quyền cho các thông tư hướng dẫn, trong đó tuyệt đối không ủy quyền cho thông tư quy định các quy định có tính chất là ĐKKD và hạn chế tối đa ủy quyền quy định về TTHC.
“Việc không gắn trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản dường như sẽ khiến cho chất lượng của các văn bản trên không được chú trọng, trong khi các văn bản này lại tác động khá lớn đến hoạt động kinh doanh của DN, thậm chí là cả môi trường đầu tư kinh doanh. Do đó, cần phải có cơ chế để xác định trách nhiệm của các cơ quan ban hành văn bản gây thiệt hại cho DN”- đại diện Ban Pháp chế VCCI đề xuất.
“Để khắc phục những bất cập hạn chế và nâng cao chất lượng VBQPPL, giải pháp đầu tiên là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần tuân thủ đúng và đầy đủ các nguyên tắc, quy chuẩn, quy trình ban hành VBQPPL được quy định trong Luật Ban hành VBQPPL 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Trong đó, cần ưu tiên đầu tư cho công tác phân tích, đánh giá tác động chính sách trong quy trình xây dựng VBQPPL. Giai đoạn xây dựng chính sách (bao gồm hoạch định chính sách, phân tích chính sách, đánh giá tác động chính sách) nên được xác định là khâu trọng yếu trong quá trình xây dựng pháp luật bởi lẽ chính sách tốt, có lợi cho dân, có lợi cho sự phát triển của đất nước là tiền đề để xây dựng VBQPPL có chất lượng tốt, có tính khả thi. Công tác phân tích chính sách nên được đầu tư nhiều nguồn lực hơn và thực hiện một cách bài bản để nước ta có được hệ thống chính sách, pháp luật chất lượng cao và đảm bảo được hiệu lực thi hành. Việc nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp và trách nhiệm công vụ của đội ngũ làm công tác hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật cần tiếp tục được thực hiện tốt hơn nữa…”.
(Bà Chu Thị Hoa, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp)