Không đủ điện sẽ đội giá gấp đôi
Theo Tổng cục Thủy sản, Bộ NN&PTNT, diện tích nuôi tôm cả nước hiện vào khoảng 700.000 ha, trong đó có 130.000-135.000ha nuôi tôm công nghiệp. Trong kế hoạch trình Thủ tướng Chính phủ về phát triển ngành tôm, diện tích nuôi tôm công nghiệp tăng lên 200 - 250 nghìn ha, chủ yếu tập trung ở miền Trung và miền Nam.
Ông Trần Đình Luân - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản kiến nghị Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) cần phối hợp để rà soát, bổ sung nguồn điện cho các vùng nuôi tôm trọng điểm ngay trong năm 2017 để sản xuất có kết quả. “Chi phí về điện hiện đang chiếm tới 11-14% giá thành tôm (khoảng 8-10 nghìn đồng/kg). Nếu không có điện mà dùng máy nổ để phát điện thì chi phí này có thể tăng lên gấp đôi”, ông Luân cho biết.
Vị này cũng kiến nghị ngành Điện triển khai chương trình giảm tổn thất điện để giảm chi phí cho người nuôi. Chẳng hạn như ở Sóc Trăng, có mô hình giảm tổn thất điện tới 23%; hay mô hình nuôi cá chẽm cũng tiết kiệm được 18 triệu đồng.
Để phục vụ chiến lược phát triển ngành tôm, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường mới đây đã có chỉ đạo Tổng cục Thủy sản cần sớm hoàn thiện thiết kế hạ tầng cho ngành nuôi tôm, trong đó có giải pháp về hạ tầng điện. Bộ trưởng đề nghị Tổng cục Thủy sản phối hợp với EVN và các địa phương nuôi tôm trọng điểm thống nhất quy hoạch tập trung; quy hoạch vùng thửa nuôi tôm quy mô công nghiệp.
Người đứng đầu ngành Nông nghiệp đề nghị các đơn vị liên quan nghiên cứu triển khai mô hình xã hội hóa đầu tư hạ tầng cung cấp nguồn điện; triển khai “chùm” đề tài khoa học về tiết giảm điện năng cho nuôi trồng thủy sản. “Mua điện mà mất nhiều tiền quá người ta sẽ sốt ruột, nhưng ít tiền mà nhiều ô xy, thông thoáng hơn là họ ơn ông”, Bộ trưởng Cường nói.
Sáu tỉnh cần 5.000 tỷ đồng
Theo EVN, lưới điện miền Bắc, miền Trung đều là lưới 3 pha 4 dây nên việc cung cấp điện cho nuôi tôm khá thuận lợi. Riêng lưới điện của miền Nam nhiều khu vực lưới điện 1 pha vốn chỉ cấp điện phục vụ sinh hoạt, nhưng các hộ dân nuôi tôm đã sử dụng tự phát nên dẫn đến tình trạng lưới điện bị quá tải, chất lượng điện áp không đảm bảo.
Để tháo gỡ vấn đề này, Tổng Công ty Điện lực miền Nam đã sử dụng nguồn vốn vay WB, vốn của Tổng Công ty, vốn ứng trước của các địa phương gần 900 tỷ đồng để thực hiện đầu tư các công trình lưới điện trung hạ áp đáp ứng cơ bản các vùng nuôi tôm phát triển nóng, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng kịp thời các hộ nuôi nhỏ lẻ, không tập trung, phát triển tự phát theo thị trường nguyên liệu tôm.
Tính đến hết ngày 31/12/2016, EVN đã cung cấp điện trực tiếp cho 48.315 khách hàng nuôi tôm với sản lượng điện là hơn 953 triệu kWh - chiếm 46% điện thương phẩm nông lâm thủy sản. Cũng theo EVN, qua khảo sát sơ bộ, nhu cầu đầu tư để cải tạo và phát triển lưới điện trung hạ thế phục vụ nuôi trồng thủy sản tại 6 tỉnh (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Tiền Giang) ven biển trong khu vực ĐBSCL đến năm 2020 là khoảng hơn 5.000 tỷ đồng.
“Nhu cầu đầu tư cần một lượng tiền rất lớn trong khi nguồn vốn của EVN rất khó khăn. Vì thế, EVN đề nghị Bộ NN&PTNT báo cáo Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có cơ chế ưu đãi huy động sử dụng vốn riêng cho phát triển ngành tôm, bao gồm cả đầu tư kết cấu hạ tầng lưới điện 3 pha cung cấp cho phát triển ngành tôm đồng bộ với các vùng nuôi trồng, chế biến theo quy hoạch được Chính phủ phê duyệt.”, Chủ tịch EVN Dương Quang Thành nhấn mạnh.
Điện quan hệ mật thiết với lĩnh vực nông nghiệp
Ngoài cấp điện nuôi thủy sản, hàng năm để đảm bảo cung cấp đủ nước phục vụ làm đất gieo cấy vụ Đông Xuân cho khoảng 620.748ha lúa và hoa màu, EVN đã phối hợp với Bộ NN&PTNT, các địa phương thống nhất kế hoạch điều tiết bổ sung nước từ các hồ chứa thủy điện cho hạ du hệ thống sông Hồng 3 đợt với tổng lượng xả từ 3 đến 5 tỷ m3.
Tuy nhiên, do thời gian xả nước vụ Đông Xuân khá dài và tốn nhiều nước, thời gian còn lại trong năm (nhất là mùa khô) cần điều tiết nước, do vậy EVN đề nghị Bộ NN&PTNT ủng hộ Tập đoàn có kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép vận hành linh hoạt, cụ thể là trong ngày do đáp ứng biến động phụ tải điện giữa giờ cao và giờ thấp điểm mà các nhà máy thủy điện có thể xả rất lớn vào giờ cao điểm và hơi thấp hơn yêu cầu một chút vào giờ thấp điểm (đôi lúc có một vài tiếng/ngày, không ảnh hưởng đến tổng lượng xả xuống hạ du).