Tại Diễn đàn “Thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW: Tiếp tục hoàn thiện môi trường phát triển KTTN" do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM) phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp tổ chức tuần qua, ông Nguyễn Văn Phụng - Chuyên viên cao cấp, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế DN lớn (Tổng cục Thuế) khẳng định qua các giai đoạn, chính sách thuế (CST) đã thể hiện được những nội dung cơ bản được đề ra.
Thứ nhất, ngay từ khi các văn bản pháp luật thuế lần đầu tiên được ban hành vào những năm 1990, các quy định về thuế của Việt Nam đã được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Cùng một hoạt động kinh doanh, cùng một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đều được áp dụng thống nhất một mức thuế suất và cơ sở tính thuế.
Thứ hai, khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành, các chính sách ưu đãi thuế được mở rộng áp dụng đối với khu vực KTTN và được quy định ngay trong luật.
Thứ ba, chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí được thiết kế, xây dựng và áp dụng trong thực tiễn ở mức hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp của người dân và DN. Từ đó, góp phần thúc đẩy phát triển SXKD, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư nhất là đầu tư áp dụng công nghệ cao, vào vùng có điều kiện KT-XH khó khăn và đặc biệt khó khăn; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết hợp lý của NSNN.
Thứ tư, trong quá trình thực hiện, hệ thống CST, phí và lệ phí được sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; góp phần chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia; Khuyến khích thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; Thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn đối với sản phẩm, hàng hoá được sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế.
Thứ năm, Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế tạo nhiều thuận lợi cho DN được giảm bớt được nhiều thủ tục, giảm thời gian khai thuế từ gần 1.000 giờ đến cuối năm 2016 giảm xuống chỉ còn 110 giờ, trong đó khu vực KTTN được hưởng lợi nhiều nhất. Thông tư 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ Tài chính được ghi nhận là sự kiện đặc biệt bởi sự đơn giản hóa và cắt giảm nhiều thủ tục tại 7 thông tư, bãi bỏ nhiều mẫu biểu kê khai, DN không phải gửi đến cơ quan thuế bảng kê hàng hóa mua vào, bán ra đi kèm tờ khai thuế GTGT; DN không phải nộp tờ khai hàng quý về tạm tính thuế TNDN; đại bộ phận DN thuộc khối KTTN được cắt giảm 2/3 số lần khai thuế trong năm (từ 12 lần xuống còn 4 lần). Quy định rõ ràng về chi phí cho mục đích kế toán (Thông tư 200/2014/TT-BTC), phân định rõ chi phí được trừ cho mục đích tính thuế (Thông tư 96/2015/TT-BTC) đã giúp cho DN được chủ động trong kinh doanh và nâng cao vai trò quản trị để vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh, vừa tuân thủ tốt pháp luật thuế; Việc bãi bỏ quy định về đăng ký tài khoản của người bán trong việc DN kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Thông tư 173/2016/TT-BTC); bỏ quy định đăng ký mẫu 06/GTGT đối với các DN mới thành lập sau 01 năm có nhu cầu tiếp tục nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (Thông tư 93/2017/TT-BTC) được cộng đồng DN đặc biệt là khu vực KTTN, các DN khởi nghiệp phấn khởi, đánh giá cao.
Thứ sáu, triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa, Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2018/NĐ-CP quy định các chính sách cụ thể cần hỗ trợ, đồng thời phân công trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc thực thi các chính sách, giải pháp. Chắc chắn 100% số DN thuộc loại này thuộc khu vực KTTN. Trong khung khổ của pháp luật hiện hành, DN loại này được ưu đãi, tạo thuận lợi tối đa trong việc giảm nhẹ các thủ tục về đăng ký thuế, khai thuế và thực hiện chế độ kế toán cùng với việc được trợ giúp miễn phí trong việc đào tạo, tư vấn, hỗ trợ về lệ phí môn bài trong giai đoạn khởi sự đến 3 năm.
Để có thể hỗ trợ được nhiều hơn cho khu vực KTTN, Bộ Tài chính đang khẩn trương tiếp tục tổng kết đánh giá việc triển khai thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020, triển khai chương trình nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, trên cơ sở đó có những đề xuất với Chính phủ và Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng pháp luật với những nội dung cụ thể và thiết thực.