Ưu đãi để thu hút đầu tư có trọng điểm
Tại hội thảo chuyên đề “Ưu đãi đầu tư, Giao dịch liên kết: Thực trạng và Giải pháp” do Bộ KH&ĐT phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức hôm 10/7, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng cho biết, sau 30 năm thu hút FDI, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về số vốn đăng ký, vốn giải ngân. Khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thể hiện qua đóng góp xã hội, nộp ngân sách nhà nước, tạo giá trị gia tăng (GTGT).
Tuy nhiên, việc thu hút FDI còn nhiều hạn chế như chủ yếu gia công, tỷ lệ nội địa hoá thấp, chưa tạo liên kết với DN trong nước... “Từ việc nhìn nhận các điểm còn hạn chế, các cơ quan chức năng sẽ xây dựng chính sách thu hút FDI mới nhằm thu hút nhiều dự án đầu tư có chọn lọc, có công nghệ cao hơn trong thời gian tới”, ông Thắng nhấn mạnh.
Ưu đãi đầu tư, tập trung vào các chính sách thuế, các ngành nghề/địa bàn, các thủ tục cấp phép đầu tư thuận lợi là một trong những quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây, với sự nỗ lực trong công tác quản lý thuế, quản lý các giao dịch liên kết của Chính phủ Việt Nam, nhiều chính sách mới đã được ban hành và có những tác động tích cực nhất định đến hoạt động đầu tư của nhiều DN tại Việt Nam.
Theo bà Nguyễn Thu Thủy, Vụ Chính sách Thuế, Bộ Tài chính, cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đã đạt và hướng đến mục tiêu như: Chính sách thuế không có sự phân biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa DN trong nước với DN FDI, bình đẳng về nghĩa vụ thuế cho tất cả các nhà đầu tư; tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng và một bước tiến quan trọng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Đại diện Bộ Tài chính cũng cho biết, hướng hoàn thiện chính sách thuế để tiếp tục thu hút FDI như ban hành chính sách mới; trong đó, có chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư cần tuân thủ nghiêm các nguyên tắc, các cam kết mà Việt Nam đã cam kết thực hiện với các tổ chức quốc tế… Đồng thời, cần đảm bảo đúng mục tiêu công bằng và không có sự phân biệt đối xử với các DN có vốn đầu tư trong nước.
Các quy định về ưu đãi thuế nên tập trung vào các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phức tạp của chính sách thuế ưu đãi, tăng tính minh bạch, đồng bộ các hệ thống văn bản pháp luật hiện nay với chính sách thuế, tránh tình trạng quy định ưu đãi thuế được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như hiện hành (Khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ, giáo dục, xã hội hóa…).
Quan trọng vẫn là triển khai thực hiện
Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc tư vấn thuế, phụ trách dịch vụ thuế DN và hải quan Deloitte Việt Nam cho rằng, trong tiến trình hội nhập quốc tế, việc thay đổi chính sách thuế và hệ thống các ưu đãi đầu tư là một trong các điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài tốt nhất.
“Chính phủ Việt Nam vẫn đang tiếp tục thay đổi nhiều thể chế, chính sách theo hướng tích cực và minh bạch nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia trong khu vực…”, ông Tuấn nhận định.
Tuy nhiên, đại diện Deloitte Việt Nam cho rằng các chính sách ưu đãi thuế đang nghiêng theo hướng ưu đãi địa bàn hơn là theo lĩnh vực, áp dụng theo lĩnh vực còn nhiều khó khăn về thủ tục, các ngành dịch vụ có GTGT cao chưa có cơ chế ưu đãi hợp lý.
Bên cạnh đó, các mức chính sách ưu đãi thuế còn khá cứng nhắc, nhiều trường hợp các nhà đầu tư không tận dụng được ưu đãi thuế nên giảm sức hút đầu tư.
Tuy nhiên, điều khiến các nhà đầu tư mệt mỏi hơn cả vẫn là triển khai thực hiện. “Trên thực tế, thời gian hoàn thành thủ tục đầu tư kéo dài hơn rất nhiều so với quy định, đặc biệt tại khâu xin giấy phép (thời gian có thể kéo dài đến 2 - 3 tháng). Hiện chưa có sự đồng nhất, phối hợp giữa các cơ quan, dẫn đến chồng chéo trong thủ tục…”, ông Tuấn nói.
Theo đại diện Deloitte Việt Nam, điều này giống như việc chúng ta vào nhà hàng xem menu rất đẹp, giá cả hợp lý; nhưng ngồi đợi mãi vẫn chưa có món ăn được mang ra. Nếu cố đợi thì khi món ăn được mang ra, dù ngon mấy, cũng không còn sự háo hức nữa.
Theo đề xuât của Deloitte Việt Nam, bên cạnh việc hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư, cần tiếp tục lộ trình đơn giản hóa thủ tục đầu tư như: Thực hiện cơ chế một cửa quốc gia ASEAN, hỗ trợ đơn giản hóa thủ tục đầu tư với các ngành nghề có điều kiện, xây dựng các kênh thông tin tiếp cận nhà đầu tư…
Theo ông Wim Douw, chuyên gia cao cấp về chính sách đầu tư, nhóm Ngân hàng Thế giới, ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách khá hạn chế và chỉ có thể hiệu quả trong những điều kiện rất cụ thể. Không thể đạt được mục tiêu phát triển thông qua các chính sách ưu đãi và dù có đạt được thì các chính sách và môi trường đầu tư nói chung đều phải thuận lợi.
Vị chuyên gia này cũng cho rằng, mục tiêu của nhiều loại chính sách ưu đãi của Việt Nam vừa dàn trải, vừa có tính chất khá đa dạng. Một số chính sách ưu đãi còn chưa rõ ràng và chồng chéo giữa xúc tiến đầu tư FDI, tăng trưởng sâu và toàn diện, nâng cao công nghệ, tạo việc làm và các mục tiêu xã hội khác.
“Hiện nay, Việt Nam còn phụ thuộc khá nặng vào biện pháp miễn thuế có thời hạn cũng như thuế suất ưu đãi. Một giai đoạn miễn thuế có thời hạn ngắn, cố định có thể không mang lại lợi ích. Cơ chế chính sách hiện tại chỉ có thể phù hợp với thu hút FDI thế hệ một”, ông Wim Douw nói.
Theo ông Wim Douw, Việt Nam cần có đánh giá kỹ hơn và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chiến lược thu hút FDI thế hệ hai. “Điểm mấu chốt không phải là đưa ra thêm các chính sách ưu đãi ngoài cơ chế hiện hành mà thay vào đó cần có định hướng tốt hơn và cải thiện các chính sách ưu đãi của Việt Nam để tăng cường hiệu quả hay “tương quan giữa giá trị và chi phí” của những chính sách đó”, ông Wim Douw khuyến nghị.
Cụ thể, Việt Nam nên cân nhắc chuyển dịch trọng tâm sang các công cụ chính sách “dựa trên hiệu quả”, đặc biệt là các công cụ khấu trừ thuế, trợ cấp thuế đầu tư hoặc khấu hao nhanh có liên hệ trực tiếp với mức đầu tư mà công ty thực hiện. Cân nhắc cải thiện danh mục các ngành được hưởng ưu đãi nhằm xác định hiệu quả hơn những nhà đầu tư có phản hồi tốt nhất với các chính sách ưu đãi.
Ông Wim Douw cho rằng, quản lý các loại hình ưu đãi này tuy phức tạp hơn, nhưng sẽ hiệu quả cao hơn và ít gây ra những méo mó trong xúc tiến đầu tư từ khối kinh tế tư nhân.